Xu Hướng 3/2023 # 10 Bài Văn Mẫu Tả Một Con Vật Nuôi Trong Nhà # Top 10 View | Eduviet.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # 10 Bài Văn Mẫu Tả Một Con Vật Nuôi Trong Nhà # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết 10 Bài Văn Mẫu Tả Một Con Vật Nuôi Trong Nhà được cập nhật mới nhất trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Tả một con vật nuôi trong nhà

10 bài văn mẫu Tả một con vật nuôi trong nhà

Bài mẫu số 1: Tả một con vật nuôi trong nhà

Chó là một loài động vật rất có ích, vì vậy hầu hết các gia đình đều nuôi chó. Nhà thì nuôi một con, nhà thì nuôi vài con thậm chí nhiều hơn và nhà em cũng vậy.

Cách đây một thời gian, mẹ em đi chợ và mua về một con chó. Hôm mua về mẹ bảo, phải chăm sóc cẩn thận chẳng mấy chốc mà lại có một đàn chó con, nghe mẹ nói vậy em rất háo hức. Em rất yêu quý động vật, vì vậy em đặt tên cho nó là Đốm. Sở dĩ tên của nó như vậy vì nó có ba màu lông xen kẽ nhau trên cơ thể. Đầu màu đen, thân cũng màu đen nhưng lại được xen kẽ bởi những đốm trắng. Nó được ba tháng tuổi và cũng khá là mập. Hai mắt đen, long lanh như hai hòn bi ve, chiếc mũi cũng màu đen và rất thính, bên cạnh là những chiếc râu ngắn. Hàm răng có những chiếc nhọn hoắt, thêm một thời gian ngắn nữa thì hàm răng đó có thể khiến những ai bị nó cắn chảy máu, thậm chí những vết cắn sâu có thể rất nguy hiểm. Hai tai rất ngắn, cụp xuống mặt. Thân hình mập mạp với bộ lông mặc dù không được óng mượt nhưng em vẫn rất thích vuốt ve bộ lông ấy. Chiếc đuôi ngắn ngủi, màu đen có những sợi lông trắng ở phần cuối. Mẹ em thường trêu: “đốm đầu thì nuôi, đốm đuôi thì thịt”, những lúc ấy em lại xị mặt ra và kêu mẹ không được thịt nó. Bốn chân có màu trắng, đầu mỗi ngón chân là những móng vuốt sắc. Đặc biệt cũng giống như loài mèo, dưới mỗi ngón chân có một lớp đệm dày, chính những lớp đệm ấy giúp nó đi lại nhẹ nhàng.

Chó là loài động vật ăn tạp, vì vậy nuôi nó rất dễ, bên cạnh đó mẹ em cũng mua thuốc về tiêm để phòng các loại bệnh. Mỗi khi em đi học về nó lại chạy ra tận cổng đón, ngoe nguẩy cái đuôi, chạy vòng quanh và quấn lấy chân em như thể đòi vuốt ve. Mặc dù đi học về rất mệt nhưng em vẫn chơi với nó. Có nhiều trò rất hay, em cầm hai chân trước và để nó đi bằng hai chân sau, bẻ ngược hai cái tai của nó lên, vì tai nó mềm nên không bị đau, lấy tay cù vào bụng nó, những lúc như vậy nó nằm ngửa ra bốn chân chổng lên trời trông rất hay. Mỗi bữa cơm em đều giành với mẹ việc cho nó ăn, đêm đến nó nằm co tròn ở một góc nha và ngủ ngon lành. Nó rất thông minh, biết phân biệt người nhà với người lạ, khi có người lạ vào, nó sủa ầm ĩ cho đến khi bố mẹ em quát mới thôi.

Em rất yêu quý con chó nhà em, gia đình em sẽ chăm sóc nó thật cẩn thận để nó mau lớn và cho gia đình em một đàn chó con như lời mẹ nói!

Như vậy chúng tôi đã gợi ý Tả một con vật nuôi trong nhà bài tiếp theo, các em chuẩn bị cho phần Tả một con vật mà em thấy trên họa báo hay truyền hình và cùng với phần Tả một con vật mà em chợt gặp trên đường để có thể hiểu rõ hơn về nội dung này.

Bài mẫu số 2: Tả một con vật nuôi trong nhà

Vào ngày sinh nhật lần thứ 8 của em , bà ngoại có tặng em một chú mèo rất dễ thương và đáng yêu. Vừa nhìn thấy chú là em đã vui mừng và thích thú lắm! Em thường gọi chú với cái tên dễ thương là Mi.

“Meo, meo, meo”, hôm nào cũng vậy, cứ khi em ngồi vào bàn học bài là chú Mi lại đến nằm dụi đầu vào chân em. Mi thân thiết và gắn bó với em từng ngày.

Ngày bà ngoại cho, con mèo chỉ bằng chai nước khoáng nhỏ nhưng bây giờ thì nó đã to bằng cái chai Cô-ca đại bự. Toàn thân chú được bao phủ một màu vàng và điểm thêm vài vệt trắng làm cho chiếc áo của chú lại càng thêm đẹp. Cái đầu của chú to hơn quả bóng ten-nít một chút. Đôi mắt tròn như hai hòn bi ve và sáng như đèn pha. Cái mũi phơn phớt hồng, lúc nào cũng ươn ướt như người bị cúm sổ mũi vậy. Cái tai của chú mới thính làm sao. Chỉ một tiếng động nhỏ, chú đều phát hiện được đó là tiếng gì, có cần phải giải quyết hay không. Cái tai và cái mũi đó chính là cái ra-đa của chú để phát hiện những tên chuột láu lỉnh hay phá hoại, ăn trộm thóc gạo của người. Cổ Mi được quàng một chiếc khăn màu trắng đục. Bốn cái chân không cao lắm so với thân hình chú nhưng lại chạy rất nhanh. Dưới bàn chân là một lớp thịt dày, mịn, màu hồng nhạt.

Bà em bảo những miếng thịt đó giúp Mi di chuyển nhẹ nhàng, không gây một tiếng động nhỏ, làm cho nhiều chú chuột không ngờ. Những chiếc vuốt của chú rất nhọn và sắc. Đã có lần, những chiếc vuốt đó đã để lại đấu vết trên tay em khi em đùa vui, nghịch ngợm với chú. Chính những chiếc vuốt đó là thứ vũ khí lợi hại của chú mà mỗi con chuột khi nhìn thấy phải kinh hoàng. Mỗi khi muốn chơi với em, chú lại dùng đầu dụi vào tay em rồi lấy những cái vuốt ấy cào cào nhẹ vào bàn tay em. Chao ôi ! Cái đuôi của chú mới dẻo làm sao ! Chiếc đuôi như một cái dấu ngã, chẳng giấu vào đâu được. Hôm nào cũng vậy, chú ta cứ ngủ khì. Thế nhưng lũ chuột cũng chẳng dám ra quấy phá vì chú rất tinh, cũng có thể lũ chuột cảnh giác, nghĩ là Mi đang rình chúng đấy. Ban đêm, Mi ta mới đi làm cho chủ. Chú ta biết hết đường đi lối lại của bọn chuột.

Không con chuột nào chạy thoát nếu chú đã phát hiện được. Có lần, em được chứng kiến nó bắt chuột ban ngày. Có lẽ, con chuột đó đói quá phải đi ăn trộm ban ngày. Chú Mi nguỵ trang rất khéo, chú nằm khuất sau cái chổi cạnh chân hòm cáng thóc. Một con chuột nhắt rất tinh ranh, mắt lấm lét, đi nhẹ nhàng đến định trèo lên hòm thóc để chui vào ăn thóc. Mi nằm yên như đang ngủ. Bỗng “chụp” một cái, chỉ nghe thấy tiếng”chít” tuyệt vọng, Mi ta đã vồ gọn con mồi trong móng vuốt của chú. Hả hê với chiến thắng của mình, Mi tha con chuột đó ra vườn. Chú nhả con chuột ra, lấy cái chân trước vờn đi vờn lại con chuột đó. Con chuột vội chạy đi nhưng chạy sao thoát. Em nghĩ con chuột đó chỉ sợ đã chết. Thế rồi, chú ta ung dung ngồi chén hết con chuột nhắt đó. Mỗi lần chú bắt được chuột, em đều vuốt ve động viên chú. Đến bữa, em lại thưởng cho chú những miếng ăn ngon nhất. Mi tỏ vẻ sung sướng lắm.

Mi ăn rất ít, hàng ngày chú ta ăn không hết một bát cơm. Khi ăn, chú ta cứ nhỏ nhẻ từng tí một. Em thường nghe mọi người nói “ăn như mèo” quả không sai. Dù đói đến đâu thì Mi cúng ăn rất từ tốn. Khác với Vàng – chú cún tinh nghịch nhà em, cứ ăn hùng hục. Vàng và Mi rất thân với nhau. Ngày nào, chúng cũng chơi đùa với nhau mà không có xích mích gì cả.

Buổi sáng, khi nắng vàng trải khắp sân, Mi nằm duỗi dài bốn chân, mắt lim dim, trông thật đáng yêu. Thỉnh thoảng , nó lại cho tay lên mặt cào cào, như là nó đang rửa mặt. Buổi tối, khi cả nhà ăn cơm xong, bao giờ Mi cũng tranh thủ ngồi vào lòng em nũng nịu.

Em rất yêu quý Mi. Mi không chỉ là vật kỉ niệm của bà ngoại tặng cho em mà nó còn là “dũng sĩ diệt chuột” của nhà em. Mi giúp nhà em rất nhiều trong chiến dịch diệt chuột. Từ ngày có Mi, nhà em không còn lo lũ chuột quấy phá. Em sẽ chăm sóc Mi cho khỏe, chơi với Mi vui vẻ để làm theo đúng lời dặn của bà em khi bà tặng Mi cho em.

Bài mẫu số 3: Tả một con vật nuôi trong nhà

Nhà em có nuôi một đàn gà, có rất nhiều loại như: gà trống, gà mái, gà con…nhưng em chú ý nhất đến chú gà trống màu đỏ rực rỡ.

Con gà trống được mẹ em xin dưới bà ngoại về, khi mang về nó cũng khá to và bây giờ sau hai tháng ở nhà em nó đã trở thành một con gà trống cường tráng. Nó có cân nặng khoảng ba ki lô gam, có bộ lông màu đỏ rực rỡ, óng mượt riêng phần đuôi thì có điểm thêm một vài sợi lông khác màu. Chiếc đuôi cong cong khiến em liên tưởng đến chiếc cầu vồng với đủ các màu sắc. Chiếc mào đỏ rực rỡ như những bông hoa gạo tháng ba, hai mắt như hai hạt cườm, chiếc mỏ cứng mỗi khi nó nhặt thóc hay gạo ở sân là lại phát ra tiếng lạch cạch. Nó cũng hay dùng chiếc mỏ cứng ấy để mổ những con gà khác khi tranh nhau thức ăn, hay mổ bất cứ cái gì có ý định tấn công nó.

Chiếc cổ cao, vươn dài kiêu hãnh mỗi khi nó cất tiếng gáy. Hai chân to, vững chắc màu vàng với mỗi bên là ba ngón giúp nó đứng vững, ở đầu mỗi ngón là những móng vuốt sắc nhọn, giúp nó bới đất để tìm các loại thức ăn như giun, dế…Đặc biệt sau mỗi bên chân đều có những chiếc cựa đặc trưng chỉ ở những con gà trống mới có. Thỉnh thoảng có xảy ra xung đột giữa những con gà trống với nhau thì chiếc cựa và móng vuốt là vũ khí để tự vệ.

Con gà trống giống như chiếc đồng hồ báo thức của cả xóm vậy. Hôm nào cũng vậy, cứ sáng sớm là cả xóm vang dội trong tiếng gáy của nó. Nó ra khỏi chuồng và bay lên một chỗ thật cao như đống rơm hoặc mái nhà phẩy cánh phành phạch và cất cao tiếng gáy Ò…ó…o. Mỗi lần như vậy nó gáy khoảng từ năm đên sáu lần liên hồi. Nhờ có nó mà cả nhà em luôn thức dậy đúng giờ, em không bị đi học trễ giờ học, bố mẹ cũng không bị muộn giờ làm.

Em rất yêu quý con gà trống nhà em, em coi nó là chiếc đồng hồ báo thức của riêng em, giúp em thuận lợi rất nhiều về việc giờ giấc. Em sẽ cho nó ăn thật cẩn thận để nó lớn hơn nữa.

Bài mẫu số 4: Tả một con vật nuôi trong nhà

Những con vật gắn vói nhà nông thì có rất hiểu con vật. Mỗi con có một lợi ích riêng một đối vói người dân. Nhưng trong số đó con vật mà tôi yêu thích nhất có lẽ đó chính là con lợn.

Tuần trước bố tôi có mua một con lợn làm giống về. Con lợn nhìn rất đẹp Chú có một bộ lông trắng như cước lại được lớp da trắng mịn của giống nòi truyền lại làm nền, trông chú vốn đã trắng lại càng trắng hơn. Nhìn từ xa, chú giống như con bạch mã non vài tháng tuổi. Mỗi lần sục vào máng cám ăn y như một ống hút khổng lồ làm sôi lên những bọt nước như bong bóng của những cơn mưa mùa hạ. Mỗi khi nó ăn nó uống cạn phần nước rồi mới ăn phần cái. Khi ăn chiếc đuôi của nó cứ ve vẩy, bố nói nó làm như thế để đuổi ruồi muỗi. Bố nói bây giờ người ta còn cắt đuôi lợn để nuôi cho nó năng suất. Thấy thế tôi liền bảo bố đừng cắt đuôi bởi con lợn mà không co đuôi thì còn gì là con lợn nữa. Bố cười và nói bố không cắt đâu thấy thế tôi vui lắm rối rít cảm ơn bố.

Để cho lợn mau lớn nhà tôi còn cho nó ăn trộn cám với rau chuối và cả beo nữa và có khi còn có cả nữa. Bốn chân lợn chắc khỏe và cao nần nẫn từng tầng thịt một. Mỗi khi được tắm chú thích lắm mặt cứ hướng về chiếc vòi mồm thì mở ra để được uống nước nữa. Lúc đó nhìn chú thật là thích.

Khi nó ăn thi chỉ một thoáng, máng cám đã nhẵn thín như ai chùi. Cái bụng của chú mới bệ vệ, nặng nề làm sao! Từ máng cám đến góc chuồng chỉ độ ba sải tay của em mà chú phải ì à ì ạch một lúc sau mới lết tới được, rồi ngả bịch xuống nền chuồng, mũi miệng thi nhau thở.

Những lúc như thế, nhìn đôi mắt của nó toàn tròng trắng cứ đờ đẫn ra y như chú đang ở trạng thái phê phê, thật buồn cười. Còn hai cái tai thì như hai cái lá mít phất qua phất lại như cám ơn mọi người cho chú chén những bữa no say mãn nguyện như thế.

Cái lỗ mũi dài, ươn ướt như người bị cảm cúm. Mõm lợn không ngớt cử động, lúc thì ủi phá, lúc thì kêu eng éc… Thân chú to và rất dài. Vì được chăm sóc cẩn thận nên cái bụng chú lúc nào cũng căng tròn, đầy những thịt. Nước da màu hồng nhạt, đẹp như màu hoa đào những ngày xuân.

Cái bộ chú ăn mới thô tục làm sao! Nếu đã quá bữa mà chưa cho nó ăn. Thì chú sẽ kêu thật ầm ĩ cho đến khi nào có ngường cho ăn mới thôi. Mỗi lần ăn thì chú ăn lia lịa, cám, cháo, lá môn… dính trên mõm không biết bao nhiêu mà kể.

Tôi rất yêu chú lợn này, mỗi khi rảnh rỗi tôi thường giúp bố băm bèo cho lợn mau lớn, mỗi khi nhìn chú lợn tôi cảm thấy như được vui hơn rất nhiều.

Bài mẫu số 5: Tả một con vật nuôi trong nhà

Nhà em có nuôi rất nhiều động vật nhưng em yêu thích nhất là những chú vịt mà mẹ em nuôi phía sau ngôi nhà. Những chú vịt ngộ nghĩnh ấy đã được nuôi hơn một tháng. Giờ chúng cũng đã lớn, ngày ngày, em được mẹ giao cho công việc là chăm sóc đàn vịt, cho chúng ăn và mở cửa chuồng cho đàn vịt đi tắm, bơi lội trong ao.

Vịt là loài vật thuộc dòng họ lông vũ, vì thế chúng mang bộ lông rất dày, trắng muốt và không bao giờ sợ nước ngấm vào trong người. Những chú vịt của nhà em nặng chừng một kilogram, dáng vẻ tròn tròn. Cái đầu hình bầu dục, phía trên có chút mào màu đo đỏ, thi thoảng cái đầu ấy lại ngẩng lên để gọi các bạn vịt của mình với những tiếng kêu “cạp cạp”. cái mỏ của chú dài và rộng, không nhỏ và nhọn như mỏ của những chú gà nhà bác Hai. Những chiếc mỏ và vàng luôn kêu “cạp cạp” cả ngày không ngừng nghỉ. Mỗi buổi chiều em lạ mở cửa chuồng cho đàn vịt đi tắm, chúng vui thích lắm.

Cả đàn lạch bạch từng bước đi nặng nề, chậm chạp nối đuôi nhau đi về phía bở ao. Ở trên bờ, đàn vịt chậm chạp là thế, vậy mà khi ở dưới nước, chúng lại như những người thợ bơi lội đích thực. Cả đàn vịt thỏa thích bở từ chỗ này sang chỗ khác. Đôi cánh lớn thỉnh thoảng lạ mở rộng, vỗ phành phạch như đang khoe điều gì. Hai chân của các chú như hai cái bánh chèo, với lớp màng giữa các ngón có tác dụng như bánh lái, đẩy nước đi giúp chú bơi lội nhanh hơn. Bộ lông vũ màu trắng bơi lội trong nước cả ngày nhưng không hề bị ngấm nước. Có lẽ, mùa đông dù có lạnh thì những chú vịt cũng không bị cảm lạnh bởi đã có lớp cánh ấm áp của mình rồi. Dưới nước, thỉnh thoảng những chú vịt lại rỉa lông rỉa cánh cho sạch sẽ rồi tiếp tục mò cua cá dưới nước. thỉnh thoảng chúng lại lặn ngụp dưới nước để tìm những con cá, con cua ở tít bên dưới. Nhưng dù có chạy cũng làm sao mà thoát khỏi sự nhanh nhẹn của những chú vịt kia được.

Em rất yêu những chú vịt của nhà em. Mỗi khi nhìn chúng em lại nghĩ ngay tới những người thợ lặn tài ba mà em thưởng xem trên ti vi. Thế nên, mỗi lúc nhìn chúng tung tăng bơi lội dưới nước em lại cảm thấy vui vẻ.

Bài mẫu số 6: Tả một con vật nuôi trong nhà

“A, chú cún con đẹp quá!”. Em reo lên khi thấy bố mua về một chú chó xinh xắn. Em bế chú lên tay và đặt tên cho chú là Li Li – một cái tên thật hợp với chú cún xinh đẹp này.

Li Li có hai màu trắng và nâu sẫm. Đầu chú như quả đu đủ nhỏ. Hai tai luôn dỏng lên nghe ngóng. Hai mắt Li Li tròn xoe, đen láy, rất tinh nhanh. Mũi chú đen bóng lúc nào cũng ươn ướt nước như người bị cảm cúm. Lưỡi chú thường vắt sang một bên, màu đỏ hồng, để lộ mấy răng nanh nhỏ, nhọn trắng tinh ở hai bên khoé miệng. Thân chú được khoác chiếc áo màu trắng, điểm thêm những đốm màu nâu trông rất duyên dáng. Đuôi chú có lông dày, tròn như một cây chuối phất trần lúc nào cũng rung rung thật ngộ nghĩnh. Ngực chú nở nang, bốn chân chạy nhanh thoăn thoắt. Chẳng bao lâu, Li Li được coi là một thành viên không thể thiếu trong gia đình em. Mỗi khi em đi học về chú chồm hai chân trước lên tỏ vẻ thân mật. Khi màn đêm buông xuống, cả nhà em ngủ ngon giấc sau một ngày làm việc mệt nhọc. Còn Li Li, nó vẫn thức để canh giấc ngủ cho mọi người.

Li Li rất thích chơi đùa. Mỗi khi em vui chơi chạy nhảy, chú ta cũng thích, cứ chạy theo em, vẫy đuôi tíu tít. Khi người lạ tới nhà, chú sủa lên những tiếng “gâu, gâu…” thật dữ tợn. Bị bố em mắng, chú như hiểu được nên im ngay, rồi nhẹ nhàng đứng sang một bên nhường lối cho khách vào.

Em rất quý Li Li. Mỗi khi đi đâu về, em thường vuốt ve nó và thỉnh thoảng em lại thưởng cho nó khi thì cái bánh, khi thì cái kẹo. Li Li ăn ngon lành và tỏ vẻ biết ơn.

Bài mẫu số 7: Tả một con vật nuôi trong nhà

Nhà em có một con gà mái. Gà mái mắn đẻ, đẻ hàng chục quả trứng hồng, to mỗi lứa. Trong các vật nuôi trong nhà em thích nhất là chị gà mái này.

Chị gà mái to bằng cái ấm nước, nặng chừng hai kí. Chị khoác bộ lông màu vàng thẫm. Cái mào quăn lại, đỏ sẫm, xinh xinh. Đôi cánh lúc xòa ra theo một chân duỗi thẳng, lúc lại khép chặc vào thân hình như khoác chiếc áo gi-lê. Cái chân xinh xinh thời mái tơ, chỉ sau ba lứa đẻ và nuôi con, nay đã có nhiều thay đổi: móng nhọn và sắc, lớp vảy màu sừng đã bọc lấy cặp chan to và ngắn. Cái đuôi mượt và cong cong, lúc nằm sưởi nắng lại xòe ra.

Mỗi năm, bốn lứa đẻ, ấp trứng và nuôi con. Hình ảnh chị ta cứ thay đổi theo vòng đời. Nhảy lên ổ rơm, một lúc sau kêu thật to”Cục tác! Cục tác!”. Trong thời gian đẻ trứng, thân hình chị ta tròn lẳn, bộ lông mượt mà, lúc nào cũng kêu “cooc! Cooc!”. Vẻ đẹp ấy của chị ta đã làm cho anh gà trống nhà bác Xoan cứ bám chặt lấy. Sau gần một tháng ấp trứng, chị gà mái gầy hẳn đi. Chị ta đã trở thành một bà mẹ có đàn con đông đúc. Hàng chục gà con vàng óng như hòn tơ, líu ríu, lon ton chạy theo gà mẹ. Chị ta chăm chút đàn con thơ, dành cho chúng từng hạt tấm, con kiến, con sâu nhỏ. Độ bốn mươi lăm ngày sau, gà con mọc đuôi tôm, xa dần gà mẹ, tự lập. Nhan sắc chị ta lại đẹp lên, tưởng như đi thẩm mĩ viện mới về. Anh gà trống nahf bác Xoan lại bám lấy…

Đàn gà của gia đình em cứ mỗi ngày một đông thêm. Nghe tiếng gà “cục tác…cục tác…”, em thấy rát thích. Nó là kho báu của mẹ em. Nó được mẹ em chăm chút và biệt đãi.

Bài mẫu số 8: Tả một con vật nuôi trong nhà

Nó tên là Lai, cái tên mà em đặt cho nó khi nó còn bé tí tẹo. Ba bảo: “Giống chó này quý lắm con ạ! Ba dặn đi dặn lại nhiều lần, với lại ở chỗ thân quen bác ấy mới ưu tiên cho mình con Lai này đấy, ráng mà nuôi dạy cho kĩ!”.

Tối đến, Lai thường nằm ngủ ở bậc thềm ngoài hiên để canh chừng kẻ trộm. Không biết trong suốt cả một đêm dài đằng đẳng như thế nó có ngủ được chút nào không. Bất kì một tiếng động nhỏ nào chú cũng đều phát hiện được cả. Có một lần, tên trộm định lẻn vào bưng đi một chậu kiểng quý ở trước sân nhà. Chú từ bậc cửa phóng ra, sủa lên mấy tiếng. Thấy động tên trộm vội lùi dần ra cửa. Lai biết là kẻ gian, liền gừ lên một tiếng rồi xông thẳng vào tên trộm, xé gọn một miếng quần cảnh cáo làm cho kẻ gian một phen khiếp đảm.

Lai khôn ngoan và lanh lợi nên cả nhà em ai cũng quý nó. Mỗi lần có gì ngon, nhất là mấy cục xương hầm, em đều dành cho Lai. Lai mừng lắm, vẫy đuôi cảm ơn rối rít.

Bài mẫu số 9: Tả một con vật nuôi trong nhà

Từ trước tới giờ, gia đình em nuôi cũng khá nhiều chú chó. Nhưng Vàng là một chú chó khôn ngoan và hiền lành hơn cả. Nó sống với gia đình em đến nay đã gần hai năm.

Vàng có một thân hình to cao lực lưỡng, nặng chừng mười ba, mười bốn ký. Toàn thân là một màu vàng sậm, mượt như tơ. Có lẽ vậy nên mới đặt tên cho cậu là Vàng. Đầu chú to như cái yên xe đạp Mini, hai cái tai dựng đứng. Nó có thể phát hiện được tiếng chân người lạ người quen từ tít đằng xa. Đôi mắt to tròn màu nâu sẫm. Cái mũi thì lúc nào cũng ướt ướt như được bối mỡ. Mấy sợi ria mép ngắn ngắn cùng với mấy cái râu khôn ở dưới cằm đen cứng tạo cho chú một bộ mặt hiền từ dễ mến. Mõm chú to, rộng mỗi khi ngáp để lộ hàm răng trắng với mấy cái răng nanh ở hai bên khóe miệng, trông đến rợn người. Và cái lưỡi thì màu hồng nhạt có sọc đen, thè ra ngoài mỗi khi trời nắng gắt.

Vàng rất khôn ngoan, chú hiểu được ý chủ. Bố bảo nằm thì nó nằm, bảo ngồi dậy thì chú chống chân trước lên, ngọ nguậy cái đầu, còn cái đuôi thì ngoắt qua ngoắt lại như một cái chổi bông. Khách đến nhà chú đều phân biệt được khách lạ, khách quen. Người lạ, chú đứng ngáng ở cổng, nhe hai hàm rầng hù dọa. Còn khách quen thì vẫy đuôi rối rít chào mời. Đặc biệt, mỗi lúc em đi học về, vừa mới về tới cổng đã thấy chú từ bậc cửa phóng ra, cái đuôi dài ngoắt lia lịa, miệng phát ra những tiếng kêu ư ử, ánh mắt vui mừng nhìn em không chớp. Rồi chú cọ cọ cái mõm ướt vào đùi em, tay em, hai chân trước co lên cào cào trên không. Những lúc như thế, em chỉ biết xoa xoa vào đầu nó và cầm chân trước rung rung vài cái khẽ nói: “Cám ơn Vàng! Vàng ngoan lắm! Nào, ta vào nhà đi!”. Nó lon ton chạy theo em từ ngõ vào đến nhà mới quay trở lại bậc cửa nằm trông nhà.

Vàng khôn ngoan lanh lợi, cả nhà em ai cũng quý nó. Coi nó như một thành viên của gia đình.

Bài mẫu số 10: Tả một con vật nuôi trong nhà

Phương Đông vừa ửng hồng. Bỗng, một tiếng gáy vang động xé tan màn sương sớm. Đó là tiếng gáy của con gà trống nhà em.

Bầy gà nhà em nhiều lắm, có đến vài chục con, nhưng duy nhất chỉ có mình chú là khác giống. Chú thuộc giống gà pha, to khỏe như một đô vật ngoại hạng. Chú khoác trên mình một tấm áo màu đỏ tía. Hai cánh và đuôi pha màu xanh biếc. Đầu chú to bằng nắm tay em, chiếc mào hình bánh lái tàu đỏ chót. Đôi mắt tròn xoe như hai hạt nhãn. Cái mỏ khoằm khoằm vàng sậm. Đôi chân màu vàng nghệ, cựa sắc và nhọn. Hai cái cánh to như hai cái quạt của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Cái đuôi đủ màu sắc nhưng nổi hơn cả là màu đen, xanh cong cong như hình lưỡi liềm. Có những chiếc lông ba màu đỏ, xanh, đen quăn lại như một nét hoa văn càng tôn thêm vẻ “hào hoa phong nhã” cho chú.

Trong sinh hoạt với đàn, có lẽ chú là người có tấm lòng độ lượng bao dung nhất. Mỗi lần em vãi thức ăn ra sân chú cũng chạy đến nhưng không thấy chú tranh giành với ai cả. Thậm chí có miếng mồi ngon chú cũng chia năm sẻ bảy cho những cô mái tơ.

Em rất yêu chú gà trống này. Chú là chiếc đồng hồ báo thức ở xóm em, thúc mọi người dậy đúng giờ để đi làm, còn tụi nhỏ chúng em thì đến trường.

https://thuthuat.taimienphi.vn/ta-mot-con-vat-nuoi-trong-nha-41379n.aspx

Nét Văn Hóa Trong Tên Gọi Một Số Nhà Thờ Trong Giáo Phận Mỹ Tho

Nhà Thờ Chánh Tòa

Ngày 24.11.1960, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ban hành sắc chỉ Venerabilium Nostrorum quyết định thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, đồng thời tổ chức lại các giáo phận cũ và mới, trong đó có việc thiết lập Giáo phận Mỹ Tho, tách ra từ Giáo phận Sài Gòn […] Cũng theo sắc chỉ trên của Tòa Thánh, nhà thờ Mỹ Tho được nâng lên thành Nhà Thờ Chánh Tòa Mỹ Tho, với tước hiệu Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Tên gọi Nhà Thờ Chánh Tòa Mỹ Tho chỉ bắt đầu từ khi Tòa Thánh thiết lập Giáo phận Mỹ Tho. Nhưng trước đó từ rất lâu, khoảng năm 1861 đánh dấu sự hiện diện của người Pháp tại Mỹ Tho và những người Công giáo thuộc các tỉnh đồng bằng tìm về Mỹ Tho cư trú . Bắt đầu từ đó hình thành họ đạo và gọi là họ đạo Mỹ Tho.

Vậy tên gọi Mỹ Tho có nghĩa là gì? Tại sao lại đặt tên họ đạo Mỹ Tho mà không phải là tên một vị thánh ? Chẳng hạn như: họ đạo thánh Phaolô, họ đạo thánh Phêrô… Thử tìm hiểu về nguồn gốc, ý nghĩa từ Mỹ Tho sẽ nhận ra nét văn hóa thú vị của nó.

Có nhiều ý kiến về nguồn gốc địa danh Mỹ Tho. Đa số ý kiến cho rằng Mỹ Tho bắt nguồn từ phương ngữ gốc như Mi Sâr biến thể thành Mỹ và Tho, có nghĩa là xứ có người con gái da trắng, đẹp. Mỹ : nghĩa là đẹp, nhưng từ Tho không có trong chữ Hán nên có lối viết khác nhau qua . C ó hai lối viết, dùng để chỉ vùng nước thơm hay cỏ thơm.

Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong T iếng Việt. Những tài liệu về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Người Việt gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock, chỉ còn giữ lại Mỳ Xó.

Mỹ Tho trong lịch sử là một vùng đất quan trọng được sớm khai phá bởi , là một thành phố có tổ chức , trích dẫn như sau:

Theo ((“Gia Định T hành T hông C hí “: Mỹ Tho đồn: Đồn Mỹ Tho tại phía nam trấn, xưa là rừng hoang, hổ báo làm hang ổ… Tại trấn Nam nhất lý hứa, cựu vi hoang lâm, hổ báo quần huyệt…). Mỹ Tho sông ngòi: Sông Mỹ Tho ở trước mặt trấn, là con sông lớn của trấn, bắt nguồn từ nội địa tỉnh Vân Nam… Tại trấn tiền, vi bản trấn đại giang, kỳ nguyên phát ư nội địa Vân Nam tỉnh…).

Theo ((“Đại Nam N hất T hống C hí “: Mỹ Tho phố lớn: chợ, quán: chợ Mỹ Tho tại huyện Kiến Hưng, thường gọi là chợ là phố lớn. Nhà ngói, rui chạm, đình cao, chùa rộng. Sông sâu , tàu thuyền buồm qua lại như dệt cửi… . Mỹ Tho quan thuế: Cửa ải Mỹ Tho ở huyện Kiến Hưng, năm thứ mười sáu Minh Mạng lập ra cửa ải thu thuế. Đến năm thứ ba Thiệu Trị thì bãi bỏ… Mỹ Tho thị tại Kiến Hưng huyện, tục danh đại phố thị, ngõa ốc, điêu manh, cao đình, quảng tự. Dương hà thuyền sưu phẩm tường, vãng lai như chức ty…) Tại Kiến Hưng huyện, Minh Mạng thập lục niên, thiết quan chinh thuế. Thiệu Trị tam niên đình…)

Theo “Lịch (Histoire de la conquête de la Cochinchine) tác giả viết: Sài Gòn là trung tâm quân sự, Mỹ Tho là trung tâm thương mãi. Các ghe thuyền của người Nhật người Tàu, người An Nam, n ười Xiêm có đáy cạn dễ di chuyển trên sông gần nơi sản xuất gạo, thêm vào truyền thống người dân địa phương từ bao thế kỷ, khiến cho Mỹ Tho trở thành trung tâm buôn bán lớn nhất của Nam kỳ, trước khi người Âu đến… Mỹ Tho là một vùng có nhà cửa rộng lớn, lợp bằng l dừa nước theo tập quán. Nhưng dọc theo bờ kinh Bưu điện (Arroyo de la Poste hay kinh Bảo Định) nhà cửa thanh nhã hơn nhiều, mái lợp ngói giữa những vườn dừa vườn cau, tất cả có vẻ trang nhã, phong lưu, đôi khi giàu có. Có thể so sánh với cảnh phồn hoa đô hội của Chợ Quán và kinh người Tàu ở Sài Gòn…

Theo hí Mỹ Tho 1902 (Monographie de Mỹ Tho 1902), tác giả người Pháp viết: …Vị trí của Mỹ Tho thật tuyệt diệu. Nó chiếm một vị thế trung chuyển quan trọng vào bậc nhất cho các loại ghe chài to lớn từ miền Tây lên Chợ lớn (Sài Gòn) qua con kinh Bảo Định và con kinh Chợ Gạo. Mỹ Tho lại có con đường sắt đầu tiên của Đông Dương, con đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho và con đường thủy nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây lên tận Pnôm P nh qua bến Tàu Lục Tỉnh Mỹ Tho…

Lược qua một số tài liệu nói về lịch sử hình thành địa danh Mỹ Tho, có thể nói: Mỹ Tho là vùng đất đẹp: đẹp về con người, đẹp về vị trí địa lý và có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, thương mại, chính trị, văn hóa… ở những năm 1861-1902, khi dân cư tập trung sinh sống ở vùng đất này. Vì thế, khi những người Công Giáo đầu tiên đến đây sinh sống và hình thành nên họ đạo với tên gọi là họ đạo Mỹ Tho, cũng hàm ý rằng: một họ đạo được hình thành trên vùng đất xinh đẹp hữu tình từ địa lý cho đến con người, cũng như sự phồn thịnh gắn liền với đời sống văn hóa chính trị, thương mại đang phát triển.

Cho nên không phải ngẫu nhiên, khi Tòa Thánh đặt họ đạo Mỹ Tho làm nhà thờ Chánh Tòa Giáo phận Mỹ Tho, lại lấy tước hiệu: Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tước hiệu này diễn tả vẻ đẹp của Mẹ Maria, như lời bài hát: Mẹ Tuyệt Mỹ của linh mục Nhạc sĩ Kim Long: Mẹ tuyệt mỹ không hề vấn vương tội tình, diễm lệ như ánh bình minh. Mẹ hoàn toàn trong sạch tinh khiết như muôn hoa tươi xinh.

Gọi là nhà thờ Chánh Tòa Mỹ Tho, vì trong ngôi thánh đường này có đặt ngai tòa của Đức Giám mục Giáo phận Mỹ Tho. Nhưng hai từ Mỹ Tho gắn với nhà thờ, còn chứa đựng trong đó lời nhắc nhớ và mời gọi anh chị em giáo dân, sống một cuộc đời thật đẹp, thật hữu ích. Đẹp từ lối sống cho đến suy nghĩ, hữu ích từ tư duy cho đến việc làm.

Ban Văn hóa Giáo dục – Giáo phận Mỹ Tho

5 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao, Văn Mẫu Lớp 11

Đề bài: Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

5 bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao hay, đặc sắc

Bài mẫu số 1: Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.

Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân lương thiện nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng “tiếng chửi”. Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.

Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.

Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mắt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm giếc và hành động tàn bạo.

Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.

Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật CHí Phèo. Đây là hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.

Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của CHí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo hành” là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.

Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”. Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.

Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.

Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.

Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội diển hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.

Sau khi đã tìm hiểu bài văn mẫu phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao các em có thể đi vào Nêu nhận xét về bi kịch cái chết của Chí Phèo hoặc tham khảo Chí Phèo bị tước đoạt nhân tính như thế nào? để ôn tập, củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng viết của mình.

Bài văn Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao hay nhất

Bài mẫu số 2: Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

“Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những ngày đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm chính là sự tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng, “Chí Phèo” là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”

Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính.

Ở tù về, Chí như biến thành một con quỷ dữ, chuyên rạch mặt ăn vạ, la làng ầm ĩ. Trở thành tay sai đòi nợ cho Bá Kiến: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Không những thế, những hành động dã man ấy hắn đều làm trong lúc say: “ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, […] đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say”. “Những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang” khiến cho hắn chưa boa giờ tỉnh táo để ý thức về những việc mình đã và đang làm.

Chính vì trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” mà tất cả mọi người đều cố tránh xa hắn, ngay cả khi hắn “kêu làng, không bao giờ người ta vội đến” bởi đã quá quen với cảnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chửi nhau với hắn, không ai công nhận hắn, ngay cả Thị Nở – người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” cũng không cần hắn. Khi ấy, hắn mới tỉnh ngộ nhận ra bi kịch thê lương của mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn kêu lên: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa”. Đó là những câu hỏi đầy cay đắng và không có lời giải đáp. Lương thiện của con người là ở trong chính mỗi người chúng ta. Vậy mà Chí lại phải đi “đòi” lương thiện. Chính cái xã hội vô nhân tính đã cướp mất lương thiện và còn khốn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm một con người tử tế cũng bị xã hội ấy tước đoạt mất.

Qua tấn bi kịch của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy một hiện thực xót xa về cuộc sống và số phận của người nông dân trước Cách mạng. Đó chính là cuộc sống bế tắc và bần cùng, người nông dân từ tha hóa đã dẫn đến lưu manh hóa. Phản ánh bi kịch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ rõ nguyên nhân là mẫu thuẫn xã hội sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng.

Trong tác phẩm, một bên, nhà văn xây dựng hình tượng giai cấp phong kiến thống trị mẫu thuẫn với một bên là người nông dân lương thiện nghèo đói. Hình tượng điển hình cho giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn chính là nhân vật Bá Kiến. Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là cái lối quát “rất sang”, lối nói ngọt nhạt và nhất là “cái cười Tào Tháo”. Chính sách cai trị của hắn rất khôn ngoan, rảo hoạt: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “chỉ bóp đến nửa chừng” và “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại vớt nó lên để nó đền ơn”, dùng thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, bởi “Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình”… Tất cả đã cho thấy tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến, lợi dụng cái ác để trục lợi cho mình và dùng cái ác để làm nên cái ác lớn hơn.

Trong khi giai cấp thống trị lọc lõi khôn đời thì người nông dân thấp cổ bé họng lại lâm vào đường cùng, trở thành nạn nhân bị bóc lột và bị đẩy vào con đường tha hóa đến tội nghiệp.

Bị đẩy vào tù một cách oan ức, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến để tính sổ. Vậy mà từ chỗ hung hăng đòi “liều chết với bố con” lão Bá Kiến, chỉ sau mấy câu ngọt nhạt và mấy hào lẻ của cụ Bá, Chí Phèo đã trở thành một tên tay sai mới của lão. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho người đọc thấy được số phận, tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng bị xã hội phong kiến đầy bất công đẩy vào con đường tha hóa, bị tước hết giá trị và tư cách của một con người. Mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp địa chủ ấy được đẩy lên cao trào khi mà Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến cảnh tha hóa chính là Bá Kiến và người cần giết cũng chính là lão ta.

Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cảnh tha hóa của mình và nhận diện được kẻ thù của mình nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đây cũng chính là một bi kịch đau đớn của người nông dân và của một con người. “Chí Phèo” là một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người ta và con đường tha hóa cùng cực nhất. Tuy vậy, nhưng tác phẩm cũng là một minh chứng về tình yêu thương và sự thực tỉnh lương tri của con người.

Tình cờ gặp Thị Nở trong một đêm say đã khiến Chí trở thành một con người khác. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí cảm thấy bao nhiêu điều mới mẻ: thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng huyên náo của những ngwoif đàn bà đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Hắn thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn” và lần đầu tiên cảm thấy sợ tuổi già, đói rết, ốm đau và cô độc. Được Thị Nở chăm sóc, thương yêu, hắn bỗng nhớ lại mơ ước về một mái ấm gia đình “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ ở nhà dệt vải” thời trai trẻ. Có thể thấy rằng, dù Thị Nở là người đàn bà dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại là người không hề chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta một cách dịu dàng và ân cần nhất. Chính tình yêu ấy làm cho “Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”, làm cho con quỷ dữ bao năm đã biến mất, thay vào đó là một con người khao khát lương thiện, khao khát làm người chân chính.

“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở. Bày tỏ mong muốn ấy một cách rất chân thực, giản dị mà chất phác đúng kiểu một anh nông dân, Chí mong muốn được làm lại từ đầu, được sống một cuộc đời khác, cuộc đời bình dị giống như bao người mà Thị Nở chính là cầu nối, là người vun trồng cùng hắn xây dựng. Phải nói rằng, tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết đắt giá để qua đó thể hiện ý nghĩa của sự hồi sinh và khẳng định sức sống của thiên lương, lương thiện trong mỗi con người. Phát hiện và miêu tả tài tình sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo chính là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao.

Thế nhưng, điều đáng nói là con người đã biết hoàn lương nhưng xã hội ấy lại không thể nào chấp nhận lại họ được nữa. Chí Phèo vừa mới mơ ước về một gia đình thì đã bị bà cô Thị Nở tạt ngay cho một gáo nước lạnh. Chí hiểu rằng, mình có cố gắng làm sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết những tội lỗi mà mình gây ra, không thể nào mà trở về hòa nhập với cuộc sống được nữa. Ý thức được điều này, cũng là ý thức được kẻ gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến kết liễu lão ta và cả chính mình. Điều này là tất yếu bởi lẽ, cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt. Để giải quyết sự bế tắc đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và kẻ gây nên tội ác. Cái chết ấy là cái chết của một bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa trở về làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người.

Với tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ phơi bày bộ mặt xã hội đen tối, bất công mà nhà văn còn đồng cảm với những bi kịch khổ đau của người nông dân thấp cổ bé họng trước Cách mạng. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của con người và khao khát thay đổi thực tại để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài mẫu số 3: Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao (1917 – 1951), mội ngòi bút bậc thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.

Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khưỡng của kẻ say rượu vừa đi vừa chửi. Hắn chửi vung tất cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa khổng chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay phần tiếp theo, tác giả kể vể lai lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bò hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Có thể vì ghen tuông, nghi cho bà ba vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh điền khoẻ mạnh, Bí Kiến cho người bắt Chí giải lên huyện và đẩy vào lao tù.

Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xông ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đổng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn ,lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm rùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đẳu từ đây, Chí trờ thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.

Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đẩn trong cổ tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức đậy, hắn muớn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rôi Chí bị cảm. Thị Nở đã ân cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm… Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí Phèo. Do đấy, Thị Nở đến mằng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi Chí khóc, Chí lại tìm đến rượu, Khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó”, tức đâm chết hai cô cháu nhà Thị Nở. Nhưng bước chân khật khường của Chí cứ thế đến nhà Bá Kiến. Hắn xông vào Bá Kiến, vung dao đòi làm người lương thiện. Trong cơn tỉnh say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.

Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, báo kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí “sao có lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy cái lò gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”

Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bổi thêm bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho Thị Nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điểu này gì nếu không phải là khả năng tái sinh của Chí Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt vấn để hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi trường đă huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành, phẩn lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của cốt truyện. Nam Cao bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.

Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một cách thức sử dụng ngổn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và đóng ghóp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã có công đưa nó lên một tầm cao mới về cả nội dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.

Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao để thấy được bi kịch của người nông dân xưa

Bài mẫu số 4: Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là “nhà văn của nông dân” , cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo.

Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.

Những năm 1940 – 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại.

Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 – 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giông như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố…. thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là “bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt”. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sông xã hội nông thôn.

Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng…. Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.

Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.

Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát “rất sang” (“bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người”), lối nói ngọt nhạt, và nhất là “cái cười Tào Tháo” (“cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy”) – tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào “khôn róc đời” này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của “cụ tiên chỉ”: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ – lão cay đắng nhận ra mình “già yếu quá ” mà “bà Tư” thì “cứ trẻ, cứ phây phây”, “nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ… khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng”. Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng… Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà “cụ Bá” được hoàn chỉnh, còn có “Bà Tư” quỷ cái “thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại “cứ bóp lên trên, trên nữa”… Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, – tuy không kém thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.

Ông tập ưung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của “cụ tiên chỉ làng Vũ Đại” về cái “nghề tổng lí”cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “chỉ bóp đến nửa chừng”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”… Còn đây là chính sách dùng người của lão: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò”, “thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (…). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn…. “… Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng “khích” Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống “cũng có lợi cụ cả”! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.

Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai địch họa…. ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở…, mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ “chửi trời” đến “chửi đời” rồi “chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…” .Và hắn bỗng tức tối khi thấy “không ai lên tiếng cả”… Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa “nông nỗi” khôn khổ của thân phận. Đó là “nông nỗi” không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với… hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ “chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!…

Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân – chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân – đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố “liều chết với bố con” lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.

Giá trị điển hình, sức mạnh tố eáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân – với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.

Câu chuyện mối tình Chí Phèo – Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, “đôi lứa xứng đôi”, thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.

Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất… Chí Phèo. Trong một đêm “rười rượi những trăng”, có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là “hứng tình”, Chí Phèo rất say và cảm thấy “bứt rứt”, “ngứa ngáy” da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ “dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn”. Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì “cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, “vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống”! Trâng no, lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ cùa ngòi bút Nam Cao.

Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá…Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa “rất xa xôi ” đã từng “ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Cái hiện tại đáng buồn: “già mà vẫn cô độc”, cái tương lai còn đáng buồn hơn: “đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo “bao giờ cũng say”, “say tận”, “có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời”, thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: “hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng (…). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say… Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn “rất ngạc nhiên” và hết sức xúc động uBởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt “như ươn ướt”, “ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình”. Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thây bị xúc phạm khi bị cái bà ba “quỷ cái” gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động… “Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi… “

Như vây là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái “bản tính tốt” ấy của anh “Trần trụi giữa bầy sói”, anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, ” hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm” – xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.

Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao!”, Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.

Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận – mụ Lợi, Đức – Nhi, Chí Phèo – Thị Nở… Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng? Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở – Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.

Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.

Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.

Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay “hắn càng uống càng tỉnh ra”. Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tỉnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nổi đau, hắn “lại uống… lại uống… đến say mềm người”. Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi… như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến “trợn mắt, chỉ tay vào mặt” lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sông thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tâm lòng của Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy “đáng yêu” đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?

Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi…”Ai cho tao lương thiện?”. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là “một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao ưước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao – trước hết là Chí Phèo – thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.

Bài mẫu số 5: Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.

“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.

Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…

Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.

Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.

Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.

Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.

Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.

Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngà nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.

https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-tac-pham-chi-pheo-cua-nam-cao-40814n.aspx Cùng với việc tham khảo các bài mẫu phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, để làm tốt các đề văn yêu cầu phân tích một tác phẩm văn, thơ trong chương trình Ngữ văn lớp 11, các em cần lưu tâm đến các bài Phân tích nhân vật Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, Phân tích truyện ngắn Vi hành, Phân tích bài thơ Vội vàng, Phân tích chí làm trai trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu,…

Top 10 Nhân Vật Mạnh Nhất Trong Fairy Tail

10. Lucy Heartfilia

Lucy ban đầu Là một Tinh Linh pháp sư bình thường với các đòn tấn công mạnh bằng cú đá, và roi của cô ấy có thể chiến đấu với lệnh triệu hồi của mình. Nhưng Lucy đã có những bước tiến đáng kể, cô ra lệnh cho 10 trong số 12 Tinh Linh hoàng đạo thay phiên trong phép Tinh Phục (Star Dress), cho phép cô sử dụng sức mạnh của các Tinh Linh như của chính mình và tìm ra cách viết lại lại cuốn sách E.N.D của Natsu để cô có thể cứu Natsu khỏi các vết thương chí mạng và sự kiểm soát của Zeref.

9. Anna Heartfilia

Tổ tiên xa xôi của Lucy cũng là một Tinh Linh pháp sư, cô phụ trách việc mở Cổng Nhật Thực tại bốn trăm năm trước, như một phần trong kế hoạch được đưa ra bởi những con rồng và gia tộc Heartfilia gửi các Sát Long Nhân đến tương lại để tiêu diệt Acnologia. Mặc dù cô đóng vai trò phần lớn là nền tản trong câu chuyện, nhưng ma thuật của Anna phải cực mạnh để có thể đưa các Sát Long Nhân đến tương lai ngay từ đầu.

8. Ultear Milkovich

Trước đây là một nhân vật phản diện trong các hồi đầu của Fairy Tail, Ultear đã chuộc lại chính mình chằng cách cứu tất cả mọi người ở hồi Grand Magic Games khỏi cái chết trong cuộc tấn công rồng do Future Rogue dàn dựng. Cô đã sử dụng câu thần chú cấm Năm Tháng Cuối Cùng (Last Ages) giúp đảo ngược thời gian một phút với cái giá là già đi đến gần chết. Với kiến thức về những gì đã xảy ra trong một phút đó, vô số người đã có thể tránh được các cuộc tân công giết chết họ ban đầu. Ultear thậm chí còn trở lại ở dạng linh hồn trong cuộc chiến Dimaria để phá vỡ Wendy và Chelia khỏi thời gian dừng!

7. Irene Belserion

Là một trong Thập Nhị Thuẫn, Irene đã ở cấp độ cao hơn nhiều so với hầu hết các pháp sư mà chúng ta thấy trước đây. Bà ấy có thể mê hoặc vũ khí để trở chúng trở thành người sống, tái cấu trúc vùng đất của cả một lục địa theo ý muốn và kéo các thiên thạch ra khỏi quỷ đạo để ném vào người. Bà cũng là người khởi tạo Sát Long Thuật và từng có khả năng tự biến thành rồng. Người duy nhất có thể đánh bại bà là con gái của bà, Erza Scarlet.

6. Mavis Vermilion

Hội trưởng đầu tiên của Fairy Tail đã ngủ bên dưới hội trường hơn 100 năm, chỉ có thể xuất hiện như một linh hồn cho dến hồi Alvarez khi cô trở lại để giúp Fairy Tail chiến thắng. Cô lớn lên như một đứa trẻ không một xu dính túi chỉ có phép thuật ảo ảnh để giữ hội của mình, nhưng cuối cùng trở thành một nhà chiến thuật bật thấy và pháp sư, người đã phát minh ra ba phép thuật vĩ đại: Fairy Law, Fairy Long và Fairy Sphere. Cô cũng phải chịu lời nguyền của Ankhseram, giống như Zeref, vì vậy cô ấy là người duy nhất có thể thực sự hiểu anh ta. Cuối cùng, điều đó là thứ giúp cô đánh bại anh ta một lần và mãi mãi.

5. Erza Scarlet

Nhìn bề ngoài, Erza không giống như có đủ sức mạnh ma thuật hay mạnh mẽ để giải thích cho chuỗi chiến thắng của cô trước các đối thủ dễ dàng đánh bại đồng đội của cô. Tuy nhiên, Erza sở hữu nhiều bộ áo giáp sắt nhất mà bất kỳ nhân vật nào có thể có. Sẽ không có vấn đề gì nếu nhứ tất cả xương trong cơ thể cô ấy bị gãy, cơn đâu của cô ấy vượt qua giới hạn, hay nếu cô ấy bị đè bẹp bởi một thiên thạch, thì cô ấy sẽ giũ sạch tất cả và giành chiến thắng trước sự kinh ngạc của kẻ thù. Tại sao? “Bởi vì cô ấy là Erza”.

4. Gildarts Clive

Gildarts là một trong những pháp sư ưu tú nhất cảu Fairy Tail, Ông thường có các nhiệm vụ cấp S khó khăn mà không ai khác có thể hy vọng xử lý, vì vậy mà không xuất hiện thường xuyên. Khi ông quay trở về nhà, toàn bộ thị trấn Magnolia phải thay đổi cách bố trí chỉ để phép thuật “Phá hủy” (Crush) của ông không vô tình phá hủy mọi thứ trên đường đi của nó. Trong hồi đảo Tenrou, Natsu run rẩy vì sợ hãi và thừa nhận thất bại chỉ sau khi thử sức mạnh thật sự của Gildarts. Lý do duy nhất khiến ông ta chỉ ở vị trí thứ 4 là vì ông ta không làm được gì nhiều trong trận chiến cuối cùng với Zeref và Acnologia.

Zeref là người thần bí nhất trong tất cả các nhân vật phản diện, giống như kiểu một vị tướng bóng tối hay là một người được tôn thờ. Anh ta bị nguyền rủa bởi lời nguyền của Ankhseram, nó giết chết mọi thứ anh ta quan tâm nếu nó đi vào một bán kinh nhỏ xung quanh anh ta. Tuy nhiên, anh ta vẫn tìm ra cách tích lũy được một đội quân khổng lồ ở quốc gia láng giềng Alvarez, vì vậy anh ấy vẫn còn hơn một trận đấu với hội Fairy Tail. Anh ta cũng có thể tạo ra quỷ và điều khiển Natsu thông qua sách E.N.D., do đó, để hạ anh ta cần phải mất nhiều hơn là vũ lực…

2. Acnologia

Con rồng cổ đại này có sức mạnh vô cùng lớn đến nỗi khi hội Fairy Tail lần đầu tiên gặp anh ta trong hồi Tenrou, họ phải đóng băng bên trong quả cầu ma thuật trong bảy năm chỉ để sống sót sau một đòn tấn công cơ bản của anh ta. Khi xuất hiện trong hồi cuối, Acnologia quyết tâm tiêu diệt mọi Sát Long Nhân và chiếm lấy thế giới. Và kể từ khi anh ta sở hữu Magic Dragon Slayer, ma thuật thông thường không còn có tác dụng với anh ta. Làm thế nào để các nhân vật chính của chúng ta có thể hy vọng đánh bại anh ta?

1. Natsu Dragneel

Natsu là Kẻ giết rồng lửa, con nuôi của rồng Igneel và là nhân vật chính của Fairy Tail. Với tất cả, anh ta không thể vượt qua Zeref hay Acnologia, nhưng với sức mạnh tổng hợp của Dragon Slayer Magic, sự giúp đỡ của bạn bè, quyết tâm kiên định của anh ta, và thậm chí là những bộ áo giáp của Erza, cuối cùng anh ta thắng thế. Anh ta thậm chí còn vượt qua được khối u ma thuật – thứ gần như giết chết anh ta thông qua sức mạnh ý chí! Không phải nghi ngờ gì, Natsu là nhân vật mạnh nhất trong bộ truyện.

Cập nhật thông tin chi tiết về 10 Bài Văn Mẫu Tả Một Con Vật Nuôi Trong Nhà trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!