Bạn đang xem bài viết Đặt Tên Con Gái Theo Phật Giáo được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tên gắn liền với vận mệnh con trẻ
1. Đặt tên cho con gái hay theo vần A
Ái Hồng: Cô gái nhỏ dễ thương.
Ái Nhi: Con gái nhỏ luôn được yêu thương.
An Bình: Mẹ mong con luôn bình an.
An Nhàn: Mẹ mong con có một cuộc sống êm đềm.
Ánh Dương: Con sáng chói như vầng mặt trời.
Ánh Ngọc: Con đẹp như một viên ngọc.
Anh Thi: Cô gái nhỏ yêu kiều.
Anh Thư: Con là một cô gái mạnh mẽ.
Ngọc Anh: Bé là viên ngọc trong sáng, quý giá tuyệt vời của bố mẹ
Nguyệt Ánh: Bé là ánh trăng dịu dàng, trong sáng, nhẹ nhàng
Diệu Anh: Con gái khôn khéo của mẹ ơi, mọi người sẽ yêu mến con
Quỳnh Anh: Người con gái thông minh, duyên dáng như đóa quỳnh
Trâm Anh: Con thuộc dòng dõi quyền quý, cao sang trong xã hội.
2. Đặt tên cho con gái theo vần B – C
Bạch Cúc: Đóa cúc trắng bình dị.
Bạch Loan: Con là cô gái xinh đẹp thanh cao.
Bạch Tuyết: Con xinh đẹp như công chúa trong chuyện cổ tích.
Băng Băng: Con thật kiêu sa.
Bảo Châu: Viên ngọc quý của mẹ.
Bảo Lan: Loài hoa quý.
Bảo Quyên: Con chim quý.
Bảo Tiên: Cô gái quý giá và xinh đẹp của mẹ.
Bảo Uyên: Cô gái đài các, uyên bác và duyên dáng.
Bích Chiêu: Con hội tụ nét đẹp như một viên ngọc bích.
Bích Hà: Dòng sông màu ngọc bích.
Bích Hợp: Người con gái dịu dàng.
Bích Loan: Người con gái kiêu kỳ.
Bích Ngọc: Con là viên ngọc quý.
Bích Quyên: Con chim màu ngọc bích.
Bích Thu: Mùa thu màu ngọc bích.
Gia Bảo: Bé là “tài sản” quý giá nhất của bố mẹ, của gia đình
Ngọc Bích: Bé là viên ngọc trong xanh, thuần khuyết
Minh Châu: Bé là viên ngọc trai trong sáng, thanh bạch của bố mẹ
Bảo Châu: Bé là viên ngọc trai quý giá
Kim Chi: “Cành vàng lá ngọc” là câu nói để chỉ sự kiều diễm, quý phái.
Cẩm Hiền: Người con gái hiền thục.
Cẩm Ly: Con là món đồ quý giá.
Cẩm Thúy: Con chim quý.
Cát Cát: Con luôn gặp may mắn trên đường đời.
Chi Lan: Nhành hoa lan.
3. Đặt tên con gái theo vần D-H
Tên con gái từ vần D -H
Dã Lâm: Con như một khu rừng bí ẩn và quyến rũ.
Dã Thảo: Hồn nhiên như cỏ.
Đài Trang: Cô gái đài cát và đoan trang.
Đan Thanh: Người con gái có nét thanh tao.
Diễm Châu: Con là viên ngọc sáng.
Diễm Hương: Mùi hương tràn đầy.
Diễm Thảo: Loài cỏ đẹp.
Diễm Trinh: Cô gái trinh trắng.
Diệp Vy: Cây lá xinh đẹp.
Diệu Hương: Hương thơm kỳ diệu.
Diệu Nương: Cô gái tuyệt diệu.
Đông Đào: Hoa đào nở trong mùa đông.
Đông Trà: Hoa trà trong mùa đông.
Duy Mỹ: Con là một cô gái yêu cái đẹp.
Duyên Mỹ: Xinh đẹp và duyên dáng.
Ngọc Diệp: là Lá ngọc, thể hiện sự xinh đẹp, duyên dáng, quý phái của cô con gái yêu
Mỹ Duyên: Đẹp đẽ và duyên dáng là điều bạn đang mong chờ ở con gái yêu đó.
Nguyệt Cát: Hạnh phúc cuộc đời con sẽ tròn đầy
Trân Châu: Con là chuỗi ngọc trai quý của bố mẹ
Quế Chi: Cành cây quế thơm và quý
Trúc Chi: Cành trúc mảnh mai, duyên dáng
Xuyến Chi: Hoa xuyến chi thanh mảnh, như cây trâm cài mái tóc xanh
Thiên Di: Cánh chim trời đến từ phương Bắc
Ngọc Diệp: Chiếc lá ngọc ngà và kiêu sa
Nghi Dung: Dung nhan trang nhã và phúc hậu
Linh Đan: Con nai con nhỏ xinh của mẹ ơi
Thục Đoan: Hãy là cô gái hiền hòa đoan trang
Đặt tên cho con gái theo vần G – K
Gia Linh: Con là điều tốt lành của gia đình.
Giang Thanh: Dòng sông màu xanh.
Giao Linh: Điều tốt lành luôn đến với con.
Hà My: Hàng lông mày đẹp.
Hà Thanh: Dòng sông xanh.
Hạ Vy: Mùa hạ dịu dàng.
Hải Châu: Viên ngọc của biển.
Hải My: Cô gái nhỏ mà mạnh mẽ.
Hải Phương: Hướng về phía biển.
Hải Thanh: Biển xanh.
Thanh Hà: Dòng sông trong xanh, thuần khiết, êm đềm, đây là điều bố mẹ ngụ ý cuộc đời bé sẽ luôn hạnh phúc, bình lặng, may mắn.
Hải Vy: Bông hoa giữa biển.
Hàm Thơ: Cô gái đầy ý thơ.
Hạnh Dung: Dung mạo hạnh phúc.
Hạnh Phương: Đi về phía hạnh phúc.
Hạnh Vi: Luôn làm điều hạnh phúc.
Hiền Mai: Bông hoa mai hiền thục.
Hiểu Vân: Đám mây buổi sáng.
Họa Mi: Con sẽ hát hay như chú chim họa mi.
Hoài Giang: Dòng sông thương nhớ.
Hoài Trang: Món trang sức đẹp mãi.
Hoàng Hà: Dòng sông vàng.
Hoàng Miên: Cây thảo miên vàng.
Hoàng Yến: Chim hoàng yến.
Hồng Đào: Ngon như quả hồng đào.
Hồng Hạnh: Cuộc đời con có phúc lớn và đức hạnh.
Gia Hân: Cái tên của bé không chỉ nói lên sự hân hoan, vui vẻ mà còn may mắn, hạnh phúc suốt cả cuộc đời
Bé như một bông hoa bằng ngọc, đẹp đẽ, sang trọng, quý phái
Ngọc Hoa: Bé như một bông hoa bằng ngọc, đẹp đẽ, sang trọng, quý phái.
Lan Hương: Nhẹ nhàng, dịu dàng, nữ tính, đáng yêu
Quỳnh Hương: Giống như mùi hương thoảng của hoa quỳnh, cái tên có sự lãng mạn, thuần khiết, duyên dáng
Hồng Khuê: Viên ngọc nhiều hồng phúc.
Hồng Như: Nhiều hồng phúc.
Hồng Phương: Đi về phía hạnh phúc.
Hồng Thảo: Cỏ hạnh phúc.
Huệ An: Ơn huệ từ trời cao, mẹ mong con bình an.
Huệ Lâm: Rừng cây nhân ái.
Huệ Phương: Về phía ân huệ.
Hương Lâm: Khu rừng mùi hương.
Hương Mai: Hương hoa mai.
Hương Thủy: Dòng nước thơm.
Hương Xuân: Hương thơm mùa xuân.
Huyền Ngọc: Viên ngọc huyền diệu.
Huyền Trâm: Trâm Anh, huyền diệu.
Khả Ái: Con là cô gái xinh đẹp, khả ái.
Vân Khánh: Cái tên xuất phát từ câu thành ngữ “Đám mây mang lại niềm vui”, Vân Khánh là cái tên báo hiệu điềm mừng đến với gia đình.
Ngọc Khuê: Một loại ngọc trong sáng, thuần khiết
Diễm Kiều: Vẻ đẹp kiều diễm, duyên dáng, nhẹ nhàng, đáng yêu.
Thiên Kim: Xuất phát từ câu nói “Thiên Kim Tiểu Thư” tức là “cô con gái ngàn vàng”, bé yêu của bạn là tài sản quý giá nhất của cha mẹ đó.
5. Đặt tên cho con gái theo vần L – T
Ngọc Lan: Cành lan ngọc ngà của bố mẹ
Mỹ Lệ: Cái tên gợi nên một vẻ đẹp tuyệt vời, kiêu sa đài các.
Kim Liên: Với ý nghĩa là bông sen vàng, cái tên tượng trưng cho sự quý phái, thuần khiết.
Gia Linh: Cái tên vừa gợi nên sự tinh anh, nhanh nhẹn và vui vẻ đáng yêu của bé đó.
Thanh Mai: xuất phát từ điển tích “Thanh mai trúc mã”, đây là cái tên thể hiện một tình yêu đẹp đẽ, trong sáng và gắn bó, Thanh Mai cũng là biểu tượng của nữ giới.
Tuệ Mẫn: Cái tên gợi nên ý nghĩa sắc sảo, thông minh, sáng suốt.
Nguyệt Minh: Bé như một ánh trăng sáng, dịu dàng và đẹp đẽ.
Diễm My: Cái tên thể hiện vẻ đẹp kiều diễm và có sức hấp dẫn vô cùng.
Kim Ngân: Bé là “tài sản” lớn của bố mẹ.
Bảo Ngọc: Bé là viên ngọc quý của bố mẹ.
Khánh Ngọc: Vừa hàm chứa sự may mắn, lại cũng có sự quý giá
Thu Nguyệt: Trăng mùa thu bao giờ cũng là ánh trăng sáng và tròn đầy nhất, một vẻ đẹp dịu dàng
Hiền Nhi: Con luôn là đứa trẻ đáng yêu và tuyệt vời nhất của cha mẹ
Hồng Nhung: Con như một bông hồng đỏ thắm, rực rỡ và kiêu sa
Kim Oanh: Bé có giọng nói “oanh vàng”, có vẻ đẹp quý phái
Diễm Phương: Một cái tên gợi nên sự đẹp đẽ, kiều diễm, lại trong sáng, tươi mát
Bảo Quyên: Quyên có nghĩa là xinh đẹp, Bảo Quyên giúp gợi nên sự xinh đẹp quý phái, sang trọng
Ngọc Quỳnh: Bé là viên ngọc quý giá của bố mẹ
Ngọc Sương: Bé như một hạt sương nhỏ, trong sáng và đáng yêu
Mỹ Tâm: Không chỉ xinh đẹp mà còn có một tấm lòng nhân ái bao la.
Phương Thảo: “Cỏ thơm” đó đơn giản là cái tên tinh tế và đáng yêu
Hiền Thục: Hiền lành, đảm đang, giỏi giang, duyên dáng là những điều nói lên từ cái tên này
Bích Thủy: Dòng nước trong xanh, hiền hòa là hình tượng mà bố mẹ có thể dành cho bé
Thủy Tiên: Một loài hoa đẹp
Ngọc Trâm: Cây trâm bằng ngọc, một cái tên gắn đầy nữ tính
Ðoan Trang: Cái tên thể hiện sự đẹp đẽ mà kín đáo, nhẹ nhàng, đầy nữ tính
Thục Trinh: Cái tên thể hiện sự trong trắng, hiền lành
Thanh Trúc: Cây trúc xanh, biểu tượng cho sự trong sáng, trẻ trung, đầy sức sống
Khánh Chi: Những điều may mắn.
Khánh Huyền: Điều may mắn và huyền diệu của bố mẹ.
Khánh My: Cô gái nhỏ mang lại điều may mắn.
Khánh Quỳnh: Đóa hoa mang lại niềm vui.
Khánh Vi: Đóa tường vi tốt lành.
Khúc Lan: Như một đóa hoa lan.
Kiều Anh: Cô gái đẹp, kiều diễm.
Kiều Hạnh: Cô gái đẹp và đức hạnh.
Kiều Mai: Đóa hoa mai kiều diễm.
Kiều Nguyệt: Vầng nguyệt kiêu sa.
Kiều Trinh: Điều tốt lành xinh đẹp của bố mẹ.
Kim Cương: Con là viên kim cương quý giá.
Con hãy là búp sen trắng toả hương thơm ngát
Bạch Liên: Hãy là búp sen trắng toả hương thơm ngát
Ngọc Liên: Đoá sen bằng ngọc kiêu sang
Mộc Miên: Loài hoa quý, thanh cao, như danh tiết của người con gái
Hà Mi: Con có hàng lông mày đẹp như dòng sông uốn lượn
Thương Nga: Người con gái như loài chim quý dịu dàng, nhân từ
Đại Ngọc: Viên ngọc lớn quý giá
Thu Nguyệt: Tỏa sáng như vầng trăng mùa thu
Share this:
Bhutan: Đặt Tên Hoàng Tử Theo Nghi Thức Phật Giáo
GNO – Ngày 16-4 vừa qua, đất nước Bhutan ngập tràn niềm vui và hoan hỷ khi quốc vương làm lễ đặt tên con theo truyền thống Phật giáo.
Theo đó, toàn thể người dân của “xứ sở hạnh phúc” đã vân tập về cung điện hoàng gia để cầu nguyện và chúc phúc cho hoàng tử vừa chào đời vào tháng 2 của năm nay.
Hoàng tử được đặt tên là Jigme Namgyel Wangchuck
Nghi lễ diễn ra trang trọng với sự tham dự của cựu vương Druk Gyalpo, chư Tăng Ni tại ngôi chùa linh thiêng Machen Lhakhang tọa lạc trong hoàng cung.
Dịp này, toàn thể người tham dự đã dành phút tưởng niệm đến Lama Zhabdrung Ngawang Namgyel, người đã có công thống nhất Bhutan và làm nền tảng để đất nước này phát triển an bình, thịnh vượng cho đến ngày nay.
Jigme Namgyel Wangchuck là tên mà hoàng tử vừa chào đời được đặt với ý nghĩa sẽ là một con người có đủ nghị lực, biết tu dưỡng thân tâm để kế nghiệp các bậc tiền nhân, vượt qua những thách thức, đưa đất nước Bhutan phát triển vững bền trên căn bản đạo đức Phật giáo.
Đông đảo người dân Bhutan cầu nguyện cho hoàng tử nhân lễ đặt tên
“Đây là dịp toàn thể các thành viên của hoàng gia nhiều thế hệ hiện diện đông đủ để cầu nguyện và chúc phúc cho người kế tục. Tôi tin tưởng rằng, hoàng nhi sẽ sống một cuộc sống nhân bản trong ý niệm tận lực phục vụ cho đất nước, luôn rèn luyện nhân cách và duy trì mạch sống Phật giáo tại đất nước mà các bậc tiền nhân đã dày công gầy dựng, truyền bá hàng trăm năm qua” – đương kiêm Quốc vương Bhutan Jigme Khesar Namgyel Wangchuck khẳng định.
Hoàng tử – người kế vị xuất hiện trong niềm hoan hỷ của hoàng gia Mỗi người tham dự đều nhận được hình chân dung của hoàng tử “Tôi tin tưởng rằng, hoàng nhi sẽ sống một cuộc sống nhân bản trong ý niệm tận lực phục vụ cho đất nước, Không chỉ hoàng gia mà dân chúng, ai cũng hoan hỷ đón mừng hoàng tử cùng sự kiện trọng đại này
Không chỉ hoàng gia mà dân chúng, ai cũng hoan hỷ đón mừng hoàng tử cùng sự kiện trọng đại này
Bảo Thiên (theo DW
57 Vị Phật, Bồ Tát Theo Truyền Thống Phật Giáo Tây Tạng
Mỗi một vị Phật, mỗi một vị Bồ Tát đều có hình tướng và hạnh nguyện riêng, nhưng các Ngài có chung một điều là đều có lòng thương chúng sinh vô cùng vô tận và làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.
Đạo sư Liên Hoa Sanh hay Ngài được biết là Guru Rinpoche. Ngài là hoá thân của Đức Phật A Di Đà và Đức Quán Thế Âm Bồ tát. Ngài được coi là Đức Phật thứ hai sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bậc Thánh vĩ đại đã hàng phục mọi ma quỷ và tà đạo để thiết lập Mật thừa ở Tây Tạng và Ngài nổi tiếng là đấng Thủ Hộ nguyên thủy Bất biến Quang.
Ngài hứa rằng, cứ mỗi vị Phật ra đời sẽ có 1 tỷ tái sinh của Đức Liên Hoa Sanh để cứu độ chúng sinh khắp mọi nơi. Bất cứ ai có lòng sùng mộ đến Ngài và đọc bài kệ Bảy dòng, Ngài sẽ ngủ ở cửa nhà để bảo vệ và hướng dẫn họ tới giác ngộ.
Bài kệ Bảy dòng – Bảy Dòng Kim Cương Liên Hoa
Ngự trên một mặt trăng và mặt trời, Đức Quán Thế Âm là vị Bồ Tát quan trọng nhất trong các vị Bồ Tát.
Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát, lắng nghe tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ.
Bồ Tát Quán Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện sự từ bi đến cùng tận trong đời vị lai nếu chúng sinh vẫn còn còn đau khổ. Vì chỉ có Từ Bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có Trí Tuệ mới diệt được u minh.
Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện đại thệ nguyện độ sanh của Ngài.
Ở giữa trái tim mình, vị Bồ Tát vĩ đại này cầm một cách trìu mến viên ngọc Như ý, biểu hiện Trí tuệ siêu việt rằng sự tử tế sẽ mang lại sự tử tế và hãy hiểu rằng làm hại người khác nghĩa là làm hại chính mình.
Tất cả mọi thứ xảy ra trong đời con, dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều là kết quả của chính những điều con mong muốn. Vì vậy hãy mong muốn ích lợi cho mọi người.
Hãy đánh thức con người từ bi bên trong con. Hãy sống giống như là vị Bồ Tát của lòng từ bi và hãy chuyển hóa thế giới mà con đang sống thành thế giới đầy lòng từ bi.
3. Đức Phật Tài Bảo Jambala:
Đức Jambala hay Ngài còn được gọi là Dzambala. Ngài là vị Phật giúp tiêu trừ sự nghèo khó và tăng trưởng sự ổn định, giàu có.
“Ngài Jambala cầm một trái cây (hay ngọc như ý tỏa sáng) trong tay phải để thấy rằng nếu chúng ta theo sự tu tập của ngài, chúng ta có thể gặt hái kết quả từ những nỗ lực của bản thân để đạt tới thành tựu và giác ngộ.”
4. Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:
“Đức Văn Thù Sư Lợi, nếu chúng ta đọc đủ theo âm Hán thì sẽ là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát. Ngài là đại diện cho Trí Tuệ vì Đại Trí nghĩa là Trí Tuệ thấu triệt chân lý một cách tường tận và tuyệt đối.”
Đức Văn Thù màu vàng nhảy múa tay phải cầm kiếm để tiêu diệt vô minh, tay trái cầm Kinh Bát Nhã biểu tượng cho trí tuệ cao nhất của nhà Phật.
Hai chân Ngài đang nhảy múa biểu tượng cho việc không thể tách rời giữa trí tuệ và phương tiện. Đức Văn Thù ban cho trí tuệ hiểu biết bản chất của thế giới lẫn trí tuệ hiểu biết mọi tính chất tương đối của các sự vật hiện tượng.
(Đọc: Ôm A ra pa tra na đê)
Bổn Tôn Đức Tara Trắng hay Ngài còn được biết đến là Bổn Tôn Bạch Độ Mẫu. Ngài là biểu tượng cho lòng từ bi chấp nhận. Màu trắng của Ngài tượng trưng cho sự tịnh hoá, bình an và trí tuệ. Ngài ban cho sự bảo vệ, sự tịnh hoá và hạnh phúc gia đình.
Ngài có thể giúp chúng sinh thành tựu tất cả những gì họ cần và cũng giúp họ ngăn ngừa các chướng ngại, đặc biệt là chướng ngại cho sự trường thọ của họ. Đó là lý do vì sao thực hành thần chú của Đức Tara Trắng rất phổ biến.
Thần chú của Đức Tara Trắng:
Om Tare Tuttare Ture Mama Ayuh Punya Jñana Pustim Kuru Svaha
(Đọc: Ốm Tha Rế Thu Tha Rế Thu Rê Ma Ma Ai Dà Pun Dà Nha Nà Put Tìm Khu Rù Sô Hà)
6. Đức Quán Thế Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay
Đức Quán Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, vị Phật với tình yêu thương không bờ bến, mở rộng cánh tay dịu dàng của Người ra mọi hướng, và dùng mọi phương tiện thiện xảo để đánh thức lòng từ bi chân thật trong trái tim mỗi chúng sinh.
Hãy nhận ra lòng từ bi vốn luôn sẵn có trong con và một cách tự nhiên sức mạnh của một nghìn cánh tay, một nghìn con mắt sẽ xuất hiện nơi con. Con sẽ không bao giờ đơn độc trong thế giới của lòng từ bi, vì có rất nhiều người khác cũng đang trên con đường này.
Hãy đánh thức những vị Bồ Tát nhiệt thành đang hiện diện bên trong con.
Hãy đọc tụng Om Mani Padme Hum, và quán tưởng mình chính là vị Phật của lòng từ bi.
Thần Chú của Ngài Quán Thế Âm – Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn:
( Đọc: Ôm ma ni pê mê hung hoặc Ôm ma ni pad mê hum)
Đức Kim Cương Thủ là vị Phật đại diện cho sức mạnh của tất cả chư Phật. Trong Đại Thừa, Ngài được gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát.
Trong Mật thừa, Ngài hiện thân phẫn nộ nhảy múa trong quầng lửa huy hoàng, tay phải cầm Chày kim cương phát ra sức mạnh sấm sét tiêu diệt mọi kẻ xấu hay điều xấu. Tay trái Ngài cầm sợi dây thòng lọng để trói bắt tất cả những kẻ thù của Pháp. Chân Ngài giẫm đạp lên những thân người đầu voi biểu tượng cho việc Ngài hàng phục được cả Chúa tể của Chư Thiên.
Trong quá khứ, chúa tể của chư thiên là Mahadeva ngàn tay có sức mạnh nghiêng trời lệch đất, nghĩ rằng mình mạnh nhất toàn bộ vũ trụ, tỏ ra kiêu ngạo coi thường Ngài. Hắn dẫn tất cả thiên binh đến thách thức sức mạnh của Đức Kim Cương Thủ.
Sau khi khuyên giải mà Mahadeva không nghe, Ngài đã dùng Chày kim cương tiêu diệt hắn chỉ trong một chớp mắt. Sau khi toàn bộ quân đoàn của Mahadeva đã hàng phục Đức Kim Cương Thủ, Ngài dùng thần lực cứu sống Mahadeva trở lại. Nhưng Mahadeva vẫn không hối cải, tiếp tục xông vào định đánh nhau với Ngài.
Đức Kim Cương Thủ một lần nữa trỏ ngón tay, cướp đi mạng sống của hắn. Mahadeva ngã lăn ra đất, không còn dấu hiệu của sự sống. Với lòng từ bi, Ngài cứu sống Mahadeva một lần nữa. Lần này Mahadeva quỳ xuống dưới chân Ngài, nhận được sự ban phước của Ngài và đạt giác ngộ ngay lập tức.
Hãy cầu nguyện đến Đức Kim Cương Thủ để vượt qua mọi chướng ngại và ma quỷ bên trong lẫn bên ngoài của bạn.
Ngài Tara Xanh hay còn được gọi là Đức Lục Độ Phật Mẫu.
Được sinh ra từ giọt nước mắt bi mẫn của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài Tara xanh tượng trưng cho lòng từ bi tích cực. Màu xanh của ngài biểu tượng cho thành tựu các hoạt động và phát triển các phẩm chất bên ngoài, bên trong và bí mật.
Ngài ban cho sự thành công trong các hoạt động và sự kết hợp giữa trí tuệ và hành động. Hãy cầu nguyện và trì tụng thần chú để nhận được sự ban phước từ Ngài Tara Xanh.
Thần chú của Ngài Tara Xanh:
Om tare tuttare ture soha
(Đọc: Ôm tà rê tút tà rê tu rê sô hà)
Đức Phật Di Lặc là vị Phật tương lai. Ngài sẽ thành Phật ở cõi người sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài là vị Phật của tình thương.
Trong vô số kiếp trước Ngài đã phát bồ đề tâm trước đức Đại Lực Như lai và rất nhiều vị Phật khác. Kể từ đó, Ngài đã dẫn vô số chúng sinh đến giác ngộ bằng giáo pháp của cả 3 thừa: nguyên thuỷ, đại thừa và mật thừa.
Khi thực hành như 1 vị Bồ tát, Ngài không chỉ thường xuyên thiền định về tình thương rộng lớn mà Ngài còn dạy nó cho nhiều người khác.
Ngài thường ngồi ở cổng của kinh thành và suy nghĩ sâu sắc về tình thương. Tâm yêu thương của Ngài mạnh tới mức những người đi gần Ngài, chạm vào chân của Ngài liền có được sự chứng ngộ về tình yêu thương vô điều kiện.
Đức Phật Dược Sư cầm trên tay phải một nhành Arura, mà từ đó mọi loại thuốc ở Tây Tạng được cấu thành. Tay trái Ngài cầm chiếc bát chứa ba loại nước cam lồ chữa bệnh và phục hồi sự sống, chống lão hóa và khai sáng tâm trí.
Mục đích của Ngài là chữa lành về tâm linh, còn thân thể chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian hữu hạn. Khi nhận ra thế giới này chỉ tồn tại trong ảo giác nhầm lẫn, con sẽ nhận ra tình trạng vật lý cũng là một sản phẩm của tâm con mà thôi.
Thân thể con chỉ là một phần của tâm. Hãy đánh thức người chữa lành linh thánh bên trong. Nhận ra ốm đau chỉ có thể làm thân thể này không khỏe, nhưng thân này không bao giờ thực sự là con.
Thần chú của Đức Phật Dược Sư
Tayata Om Bekandze Bekandze Maha Bekandze Radza Samudgate Soha
11. Đức Diệu Âm Thiên Nữ – Saraswati
Diệu Âm Thiên Nữ là vị nữ Phật của nghệ thuật Âm thanh, Biện tài và Trí tuệ. Ngài là phối ngẫu của Đức Văn Thù Bồ Tát.
Da Ngài trắng như tuyết, mặt đẹp như ngọc, tóc xanh mượt mà, mặc thiên y không một vết may.
Đang giảng kinh gì mà lỡ quên mất liền lập tức nhớ ra. Đang nói Thần chú gì mà không nhớ thì Thần chú vẫn lưu loát tuôn ra. Nếu như bạn thường xuyên cầu nguyện đến Ngài thì âm thanh lời nói của bạn sẽ trở nên đẹp đẽ, dễ nghe, khiến ai cũng muốn đi theo.
Ngài cũng là một vị nữ Phật của kỹ nghệ nên bất kỳ ai cần sự khéo léo trong công việc (vẽ tranh, sửa máy tính, chữa bệnh, chơi đàn, nấu nướng…) cũng nên cầu nguyện đến Ngài.
Om Sarasiddhi Hring Hring
(Đọc: Ôm sa rà si đi hi ring ring)
12. Đức Mahakala Như Ý – Cintamani Mahakala
Đức Mahakala trắng hay còn gọi là Đức Mahakala Như Ý – Cintamani Mahakala, tay Ngài cầm một viên ngọc ban cho con thành tựu mọi ước nguyện. Ngài hiện ra với một nụ cười đầy uy lực bảo vệ sự giàu có và thịnh vượng của những chúng sinh cần đến Ngài.
13. Đức Kurukulle – Tác Minh Phật Mẫu
Ngài Kurukulle – Tác Minh Phật Mẫu là một hóa thân của Đức Tara đỏ.
Ngài có thân hình màu đỏ rực, một mặt, 4 tay. Hai tay Ngài cầm cung tên do Hoa Ưu Bát La Hồng tạo thành: một tay cầm dây móc câu, một tay cầm trượng móc. Quanh mình Ngài quấn 50 chiếc đầu lâu trong tư thế nhảy múa, một chân giẫm đạp lên ma nữ ngoại đạo. Mặt Ngài biểu hiện nửa giận, nửa vui.
Những ai nương tựa vào Ngài sẽ tăng trưởng tâm vô úy, được Ngài hộ trì không còn e sợ luân hồi sinh tử. Ngài giúp bạt trừ chướng ngại, thu hút mọi ước nguyện đến với người mong cầu, đặc biệt là cải thiện mọi mối quan hệ xung quanh trở nên hòa nhã và yêu thương hơn.
Thần Chú của Đức Tác Minh Phật Mẫu:
(Đọc: Ôm Ku rum ku le ri sô hà)
Ngài Guru Dragpo hay còn gọi là Guru Bọ Cạp là một hóa thân của đức Liên Hoa Sanh.
Một lần, đức Liên Hoa Sanh đang giảng ở tu viện Samye thì Pehar – là một vị thần chiến tranh, hóa thành một tu sĩ trẻ và hỏi đức Liên Hoa Sanh: Ngài sợ gì nhất? Đức Liên Hoa Sanh trả lời bằng tiếng Tây Tạng Ngài sợ nhất là: “sdig pa” – nghĩa là những nghiệp xấu. Pehar nghe nhầm rằng đức Liên Hoa Sanh nói về con bọ cạp vì trong tiếng Tây Tạng thì bọ cạp cũng gọi là “sdig pa”.
Ngày hôm sau Pehar hóa thành bọ cạp khổng lồ đến định dọa nạt Đức Liên Hoa Sanh, Ngài liền hóa thành một bậc thầy phẫn nộ – Guru Dragpo, một tay cầm chày kim cương, tay kia bắt bọ cạp và dọa đập chết nó . Pehar bèn hàng phục trước Đức Liên Hoa Sanh và thề sẽ bảo vệ Phật Pháp.
15. Đức Phật Vô Lượng Thọ – Amitayus
Đức Vô Lượng Thọ là một hóa thân của Đức Phật A Di Đà.
Ngài có thân hình màu đỏ, đang ngồi trong tư thế thiền định, hai tay cầm chiếc bình chứa nước cam lồ bất tử. Ngài ban cho đời sống có tuổi thọ dài lâu, không đau buồn, bệnh tật và dẫn những người tin tưởng Ngài đến cõi Tây Phương Cực Lạc.
Những người theo Phật giáo Tây Tạng thường cầu nguyện đến Ngài khi mắc những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, HIV… bởi sự ban phước không thể nghĩ bàn của Ngài sẽ giúp họ vượt qua về mặt thể chất cũng như tinh thần.
Bài chú của Đức Phật Vô Lượng Thọ:
Ganesha là vị hộ Phật của Văn chương, Trí tuệ và đạp bằng mọi chướng ngại. Bụng bự của Ngài Ganesha biểu tượng cho sự thịnh vượng nhưng cũng biểu trưng cho sự rộng lượng và dung chứa vô tận.
Đầu voi to lớn, tượng trưng cho trí tuệ thông thái, tai to nghe nhiều hiểu rộng. Cái vòi tượng trưng cho những khả năng đặc biệt không ai có được.
Chiếc vòi có thể khai thông mọi bế tắc, quật ngã cây cối, giúp vượt qua rừng rậm, nhưng cũng lại rất tế nhị, thậm chí nhặt nổi một cây kim! Ngài giẫm lên một con chuột thể hiện cho tốc độ và sự khéo léo. Một ngà bị gãy của Ngài thể hiện cho sự khiêm nhường.
Hãy cầu nguyện đến đức Ganesha để phát triển tài năng văn chương, trí tuệ, sự khéo léo và sức mạnh vượt qua mọi chướng ngại.
Thần chú của Ngài Ganesha
Aum Shreem Hreem Kleem Klowm Gum Ganapathaye Vara Varadha Sarvajanmaye Vasamaanya Swaha (3 lần)
17. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:
Đội chiếc vương miện chế tác từ những viên ngọc của sự tỉnh thức hoàn toàn, Đức Phật – hay Phật tính ở trong trái tim của mọi chúng sinh và biểu hiện ra ngoài thành một vũ trụ sống động.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người khai sáng ra đạo Phật, Ngài được thờ ngay giữa chính điện, ngự trên đài sen với tư thế ngồi kiết già, hoặc ngồi kiết già với tay phải cầm hoa sen đưa lên.
Hãy để tâm con thoát ra khỏi cái bẫy của việc tin rằng có một cái tôi. Khi con nhận ra rằng Đức Phật chỉ đơn giản là bản tính tự nhiên của con thì hạt giống của sự bất tử sẽ tự chín muồi. Mục đích cuối cùng của Đức Phật là đánh thức tâm giác ngộ sẵn có trong mỗi chúng sinh.
Hãy quán chiếu về Đức Phật linh thánh bên trong, giải phóng con khỏi niềm tin rằng thế giới vật chất và tinh thần là có thật. Khi ấy không còn có gì hiện ra với con ngoài vị Phật tối thượng luôn ngự sẵn bấy lâu nay.
Nhạc niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật:
Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:
18. Dakini Đầu Sư Tử Simha Mukha:
Dakini Đầu Sư tử Simha Mukha là một Dakini phẫn nộ và là hoá thân phẫn nộ của nữ Đạo sư Guhiajana, thầy của Đức Liên Hoa Sanh.
Ngài giúp hàng phục mọi ảnh hưởng tiêu cực và các cuộc tấn công của các lực lượng ma quỷ. Ngài cũng là hoá thân của Đức Vajravarahi (Kim Cương Heo Nái).
Dưới sự bảo vệ khéo léo và mạnh mẽ của Ngài, khi bạn bị tấn công, hãy cầu nguyện đến Ngài, mọi sự tấn công vào bạn sẽ bị phản ngược lại vào nguồn tấn công (gậy ông đập lưng ông), giúp bạn loại bỏ mọi chướng ngại để nhanh chóng đạt được giác ngộ.
19. Đức Mã Đầu Minh Vương – Hayagriva:
Đức Mã Đầu Minh Vương – Hayagriva là hóa thân phẫn nộ của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài có 3 đầu, 6 tay, 4 chân và trên đỉnh đầu Ngài là một chiếc đầu ngựa đang hí vang.
Tất cả mọi thế lực tiêu cực chỉ cần nghe tiếng hí oai hùng của Ngài sẽ run rẩy và hàng phục. Nếu cầu nguyện đến Ngài và được Ngài ban phước, bạn sẽ điều phục được người ác, dứt trừ mọi bệnh tật, đánh lui được đối thủ và tranh luận được thắng lợi.
20. Đức Kim Cương Tát Tỏa – Vajrasattava:
Đức Kim Cương Tát Đỏa là một vị Phật có lời nguyện sẽ tịnh hóa tất cả tội lỗi của chúng sinh.
Khi còn là một vị Bồ Tát, Ngài nguyện rằng: bất kỳ ai đọc câu Thần chú Trăm âm của Ngài thì Ngài sẽ nhận lãnh nghiệp xấu của người đó và chuyển nghiệp tốt của Ngài cho họ. Bất kỳ ai đọc Thần chú của Ngài mà không tiêu trừ bớt nghiệp xấu thì Ngài nguyện không thành Phật.
Các hành giả Mật thừa nên nương tựa vào sức mạnh tịnh hóa từ Thần chú Trăm âm của Đức Kim Cương Tát Đỏa để nhanh chóng vượt qua mọi lỗi lầm bên ngoài lẫn bên trong và đạt tới giác ngộ.
Thần chú của Đức Kim Cương Tát Đỏa:
Om benzar sato sa ma ya ma nu pa la ya
Benzar sato te no pa
Tishtha dri dho me bha wa
Su to ka yo me bha wa
Su po ka yo me bha wa
Anu rakto me bha wa
Sarva siddhi me pra yatsa
Sarva karma su tsa me
Tsittam shre yam ku ru hung
Ha ha ha ha ho bha ga wan Sarva ta tha ga ta benzra ma me muntsa benzri bha
Ma ha sa ma ya sato
Hiểu biết sai lầm khi tịnh hóa thông qua đọc thần chú Kim Cang Tát Đỏa
Đức Phật Bất Động A Súc Bệ là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Kim Cương Bộ ở phương Đông.
Ngài là biểu tượng của Đại Viên Cảnh Trí – Trí tuệ phản chiếu tất cả mọi sự vật hiện tượng và biết rõ đâu là thật, đâu là giả. Thân Ngài có màu xanh dương thẫm, tay kết ấn thiền định và ôm lấy phối ngẫu màu trắng biểu tượng cho sự kết hợp không thể chia tách của Phương tiện và Trí tuệ.
22. Đức Kim Cương Heo Nái – Vajravarahi:
Đức Kim Cương Heo Nái – VajraVarahi
Ngài là hoá thân phẫn nộ của Đức Kim Cương Du Già Thánh Nữ, chúa tể của mọi nữ hành giả Mật thừa. Trên đầu của Ngài là một chiếc đầu lợn biểu tượng cho việc Ngài chặt đầu của vô minh làm trang sức.
Trong thời của Đức Phật, có một con quỷ tên là Matrankagu gieo rắc sự kinh hoàng và khủng khiếp khắp 8 thế giới. Ngay cả những chúa quỷ hùng mạnh nhất cũng bị nó hàng phục và nó đe dọa sẽ phá huỷ toàn bộ cõi trời, lật đổ núi Tu Di nơi 33 cõi trời tọa lạc.
Chư thiên sợ hãi cầu cứu Đức Phật và Đức Phật quyết định để Đức Quán Thế Âm và Đức Kim Cương Du già Thánh Nữ đi hàng phục con quỷ.
Hai Ngài bay đến vương quốc của quỷ Matrankagu, Đức Quán Thế Âm liền hoá thành Mã Đầu Minh Vương 3 đầu 6 tay, có cánh sau lưng, còn Đức Kim Cương Du Già Thánh Nữ liền hoá thành Kim Cương Heo Nái ôm lấy Đức Mã Đầu Minh Vương trong vũ điệu hoan lạc.
Đức Mã Đầu Minh Vương hí lên 3 tiếng hào hùng, đưa sợ hãi vào trong tim của Chúa quỷ Matrankagu, còn Đức Kim Cương Heo Nái gầm lên 5 tiếng khiến vợ của Chúa quỷ run rẩy trong hoảng loạn.
Cả Chúa quỷ lẫn vợ đều đến hàng phục dưới chân hai Ngài nhưng hai Ngài không giết chúng mà quy y và giảng pháp cho chúa quỷ. Sau khi tu hành giác ngộ, chúa quỷ Matrankagu trở thành vị Hộ pháp tối thắng của nhà Phật thường được gọi là Mahakala đen.
23. Đức Đại Hắc Kim Cương Sáu Tay – Mahakala Sáu Tay:
Huy hoàng đồng thời cũng đáng sợ! Đức Đại Hắc Kim Cương, vị Hộ Pháp bảo vệ sự phát triển tâm linh, đứng ngay giữa một vầng lửa cháy dữ dội, không có một kẻ thù nào của tâm Giác ngộ, không có một sự điên loạn hoặc tiêu cực nào có thể chịu đựng được lâu dài sự hiện diện của vị Hộ Pháp phẫn nộ này. Sáu tay của Ngài biểu tượng cho sáu ba la mật, mỗi tay trong sáu tay của Ngài là biểu tượng cho việc tăng trưởng sự hào phóng, đạo đức, nhẫn nhục, kiên định, thiền định và trí tuệ. Chiếc dao kim cương sắc bén được cầm vững chắc trên một tay cắt xuyên qua và vượt qua mọi khuôn mẫu tiêu cực của tham – sân – si.
Nếu con cầu nguyện đến sự bảo vệ của Ngài thì Đức Đại hắc kim cương, Người hoàn toàn không có một chút ngăn ngại nào, luôn dõi theo để đảm bảo rằng con đang ở trên con đường linh thánh.
Đức Mahakala Sáu tay sẽ luôn bảo vệ và chăm sóc cho con.
Thần chú của Ngài Đại Hắc Kim Cương Mahakala:
Om Shri Mahakala Hum Phat
(Đọc: Ôm si ma ha ka la hum mê)
24. Đức Hô Kim Cương – Hevajra:
Đức Hô Kim Cương hay còn gọi là Đức Kim Cương Hỷ Lạc, Ngài có thân thể màu xanh da trời, 8 mặt, 16 tay và 4 chân. Mỗi mặt Ngài có 3 mắt và 4 chiếc răng nanh. Mỗi cánh tay cầm một chiếc sọ máu đang trong tư thế nhảy múa dữ tợn và hoan lạc.
25. Đức Liên Hoa Thủ Bồ Tát – Padmapani:
Ngài là biểu trưng của tình thương, sự thanh khiết và khả năng sáng tạo của trí tuệ.
26. Đức Trừ Chướng Cái Bồ Tát:
27. Đức Phật Kim Cương Trì – Vajradhara:
28. Đức Bất Động Minh Vương:
Là một trong năm Đại Minh Vương của Mật giáo – Bất Động Minh Vương là hoá thân phẫn nộ của Đức Đại Nhật Như Lai để hàng phục những chúng sinh quá cứng đầu và hộ trì Tam Bảo trong những đời vị lai. Sức mạnh và uy lực của Ngài là không thể nghĩ bàn.
Tay phải Ngài cầm thanh kiếm sắc bén chém đứt tham – sân – si là ba thứ độc hại đối với trí huệ. Tay trái nắm sợi dây có thể trói buộc tất cả những kẻ ỷ mạnh làm càn. Ngọn lửa lớn cháy mãnh liệt sau lưng Ngài có thể thiêu đốt hết thảy mọi phiền não.
Do đó, tất cả các hình tướng phẫn nộ nhìn có vẻ đáng sợ nhưng đều biểu hiện cho lòng đại bi của Ngài.
Thần chú của Ngài Bất Động Minh Vương:
Namo Samanto Vajra Nai Ham
(Đọc: Nam mô sam an tô gua ra nai ham)
Là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Liên Hoa Bộ ở phương Tây.
Ngài là biểu tượng của Diệu Quan Sát Trí – Trí tuệ thấy rõ mọi tính chất khác biệt của các sự vật hiện tượng. Thân Ngài màu đỏ, hai tay kết ấn thiền định. Ngài biểu trưng cho lòng từ bi vô lượng.
Ngài cũng là biểu tượng của sự tịnh hoá tính tham lam, chuyển hoá thành Diệu Quan Sát Trí.
Thần chú của Đức Phật A Di Đà:
(Đọc: Ôm ma ni đê wa ri)
Thần chú Đức Địa Tạng Bồ Tát:
Om Ha Ha Ha Win Sam Mo Ti So Ha
( Đọc: Ôm ha ha ha quin sam mô ti sô hà)
Quán Tưởng Thân Tướng Đức Đại Thế Chí Bồ Tát:
34. Đức Hư Không Tạng Bồ Tát:
Đức Hư Không Tạng Bồ Tát là một trong bát Đại Bồ tát của Phật giáo.
Ngài là biểu tượng cho trí tuệ, công đức và tài phú. Bởi vì Ngài có kho tàng mênh mông như hư không vô biên, có thể thỏa mãn hết thảy nhu cầu, khiến cho chúng sinh đạt được lợi ích vô cùng, chính vì thế Ngài có tên như vậy.
Ngài đội mũ Ngũ Phật, tay phải cầm kiếm lửa, tay trái cầm một cành hoa sen, trên đài hoa là viên ngọc như ý. Ngọc và kiếm biểu tượng cho công đức và trí tuệ.
Thần chú của Đức Hư Không Tạng Bồ Tát:
Om Vajra Ratna Om Trah Svaha
Ý nghĩa Chú của Đức Hư Không Tạng Bồ tát
35. Đức Thắng Lạc Luân Kim Cương – Chakrasamvara:
Bánh xe đại dục lạc là một biểu tượng của tâm giác ngộ – khi ham muốn và giận dữ được chuyển hóa thành lòng từ bi đại lạc.
Ở trung tâm, Đức Phật Phối Ngẫu thiêng liêng hoá hiện thành tinh thần, thân thể và tâm con, và ở bên ngoài chính là thế giới vật chất này! Nam và nữ, lòng từ bi và trí tuệ, phương tiện thiện xảo và tính không, hợp nhất và tạo nên sức sáng tạo mãnh liệt vượt khỏi mọi hy vọng, ham muốn, so sánh và sợ hãi. Không có sự tách rời giữa con và những thứ khác.
Hãy chuyển hóa những phản ứng dè dặt của con thành sự hòa nhập triệt để vào cuộc sống. Hãy nhìn vào bên trong, con chính là không gian của đại lạc biểu hiện qua sự hài hoà của vũ trụ này!
Đức Phổ Hiền Bồ tát – Phổ là biến khắp, Hiền là tốt đẹp. Phổ Hiền là vị Bồ tát Đẳng giác có năng lực hiện thân khắp mười phương Pháp giới, tùy mong cầu của chúng sinh mà hiện thân hóa độ.
10 Hạnh Nguyện của Đức Phổ Hiền Bồ Tát:
37. Đức Kim Cương Phổ Ba – Vajra Kilaya:
Đức Kim Cương Phổ Ba (Vajra Kilaya) thân màu lam đen có ba đầu sáu tay.
Đầu đội mũ năm đầu lâu; trên cổ đeo ba chuỗi đầu người với rắn trang sức; khoác áo da voi và da người; mặc quần da cọp. Sau lưng có hai cánh sắc bén như cây kiếm.
38. Đức Liên Hoa Thủ Bồ Tát – Padmapani:
39. Đức Kim Cương Thời Luân:
Đức Kim Cương Thời Luân là đại biểu cho tất cả chư Phật, Bồ Tát ở mười phương cùng với tổng thể của Phật Giáo Hiển Mật, là chân lý hiển hiện sự tuyệt diệu rất hoàn mỹ.
40. Đức Khổng Tước Minh Vương:
Đức Khổng Tước Minh Vương là một trong những hoá thân của Đức Phật A Di Đà.
Ngài có thân màu trắng, mặc áo lụa trắng mỏng, đầu đội mão báu, cổ đeo dây ngọc, hoa tai, cánh tay đeo vòng xuyến, các thứ trang nghiêm, cưỡi trên Khổng Tước Vương màu vàng ròng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, trụ tướng Từ bi có bốn cánh tay:
– Bên phải: tay thứ nhất cầm hoa sen tượng trưng cho kính ái, tay thứ hai cầm Câu Duyên Quả tượng trưng cho điều phục.
Còn đuôi công lại hay phủi trừ vô lượng tai ách, tăng phước, đạt được các điều tốt lành và thành tựu mọi ước nguyện của chúng sinh.
41. Chaturmukha Mahakala – Đức Mahakala Bốn mặt:
Tay phải Ngài cầm một thanh kiếm của Đức Văn Thù, tay trái Ngài cầm một chiếc đinh ba trên đó có sọ người biểu tượng cho việc chiến thắng sinh tử. Ngài có thể ban cho trường thọ, giàu có, quyền lực và đặc biệt là trí tuệ Giác ngộ.
42. Đức Phổ Hiền Như Lai Phối Ngẫu:
Hình ảnh Đức Phổ Hiền Như Lai Phối Ngẫu biểu hiện sự hòa nhập tuyệt đối của các cặp đối lập: tính không và hình tướng, tâm và vật chất, nam và nữ.
Hãy quán chiếu về sự hợp nhất linh thánh của vị Phật nam và vị Phật nữ hóa hiện thành thế giới vật chất này, và bản chất của những gì hiện hữu – sẽ được hiển lộ.
Hãy chữa lành khỏi những ảo tưởng của sự chia tách và phân biệt – hãy quán chiếu về hình ảnh của sự kết nối linh thánh này và biết rằng con chưa bao giờ cô độc.
43. Cam Lồ Quân Trà Lợi Minh Vương – Amrita Kundali
Là một trong năm vị Đại Minh Vương của Mật Giáo – hóa thân phẫn nộ của Đức Phật Bảo Sanh, Cam Lồ Quân Trà Lợi dịch âm từ tiếng Phạn – Amrita Kundali, nghĩa là cái bình, chứa đầy nước Cam Lồ tẩy rửa phiền não vô minh của chúng sinh.
Ngài thị hiện tướng phẫn nộ, hình mạo lại tựa thân Dạ Xoa, nên cũng gọi là Quân Trà Lợi Dạ Xoa Minh Vương.
44. Đức Quan Âm Trắng Ôm Phối Ngẫu:
Bao quanh bởi những đoá sen đang nở rộ, mỗi bông hoa đều tượng trưng cho sự thanh tịnh tự nhiên của tâm, những phẩm tính của Đức Quan Âm Trắng thực chất không thể tách rời với phẩm tính của chính con.
Tình yêu thương vô điều kiện của Ngài là biểu hiện của lòng từ bi chân thật, điều sẽ tự nhiên xuất hiện khi ta nhận ra con và vạn vật vốn là một, giống như các bộ phận trên cùng một cơ thể.
Thông điệp của Ngài là: Hãy tự giải phóng khỏi những suy nghĩ chỉ phục vụ cho riêng mình, hãy dũng cảm, vị tha và sáng suốt hành động vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, đây là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho một đời sống lâu dài và hạnh phúc.
45. Phật Đảnh Tôn Thắng Phật Mẫu:
Phật Đảnh Tôn Thắng Phật Mẫu là vị Phật của sự trường thọ.
Tay Ngài nâng Đức Phật A Di Đà làm Thượng Sư, biểu thị hoài ái, tay cầm mũi tên, đại biểu sự khơi dậy lòng từ bi của chúng sinh. Ấn Thí Vô Úy đại diện cho việc dẫn chúng sanh ra khỏi tất cả sự sợ hãi, ấn Thí Nguyện biểu thị sự đáp ứng đầy đủ tất cả tâm nguyện của chúng sanh, tay cầm cây cung biểu thị cho sự chiến thắng tam giới.
Trên bàn tay kiết ấn Định nâng bình cam lồ giúp chúng sinh vô bệnh tật, sống lâu. Chày kim cang đôi hình chữ thập biểu thị hàng ma, trừ tai chướng để sự nghiệp thành tựu, dây trói đại biểu cho việc hàng phục tất cả chúng sinh khó điều phục.
46. Hàng Tam Thế Minh Vương:
Hàng Tam Thế Minh Vương là biểu tượng cho sự hàng phục ba độc tham – sân – si và hàng phục ba cõi: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới.
Thân Ngài màu xanh, có ba mặt, tám cánh tay hoặc bốn mặt tám cánh tay. Ngồi trên hoa sen, lửa rừng rực. Hai tay thứ nhất kết Hàng Tam Thế Ấn.
Bên trái: tay thứ hai cầm cây cung, tay thứ ba cầm sợi dây, tay thứ tư cầm cây Tam Xoa Kích. Bên phải: tay thứ hai cầm mũi tên, tay thứ ba cầm cây kiếm, tay thứ tư cầm cái chuông Ngũ Cổ.
Phàm các quyến thuộc của các ma quỷ có ý quấy rối người tu hành, khi nghe được Chân Ngôn của Hàng Tam Thế Minh Vương thì chẳng những không có cách gây chướng, thậm chí còn trở thành tôi tớ theo hầu người tu hành.
47. Đức Phật Bất Không Thành Tựu:
Là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Nghiệp Bộ ở phương Bắc. Ngài là biểu tượng của Thành Sở Tác Trí – Trí tuệ thành tựu mọi loại mục tiêu.
Là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Bảo Sanh Bộ ở phương Nam. Ngài là biểu tượng của Bình Đẳng Tánh trí – Trí tuệ thấy rõ sự bình đẳng của tất cả các Pháp.
Thân Ngài sắc vàng, tay phải trong ấn thí nguyện, tay trái trong ấn thiền định. Ngài biểu trưng cho công hạnh bố thí siêu việt, độ sinh, tăng ích, và ban cho tất cả những gì quý giá nhất.
Ngài cũng là biểu tượng của sự tịnh hoá tính kiêu ngạo, chuyển hoá thành Bình Đẳng Tánh Trí.
49. Kim Cương Dạ Xoa Minh Vương:
Là một trong năm vị Đại Minh Vương của Mật Giáo. Kim Cương Dạ Xoa Minh Vương là hóa thân Phẫn nộ của Đức Như Lai Bất Không Thành Tựu.
Ngài có ba mặt sáu cánh tay. Mặt chính giương mở năm con mắt, hai mặt bên trái bên phải đều có ba mắt, đầu có Mã Vương Kế (tóc trên đầu dựng đứng bên phải như ngựa chạy giận hét).
Nâng cao chân trái, duỗi chân phải đứng trên hai đài sen, hàng phục tất cả Dạ Xoa, cho nên hiện ra hình tướng dũng mãnh quả cảm. Đặc biệt là tay cầm cái chuông biểu thị cho việc dùng tiếng chuông trấn kích chúng sinh, tượng trưng cho Trí Bát Nhã cảnh ngộ quần mê, hàng phục yêu ma.
Vị Minh Vương này có thể ăn thịt hết tất cả chúng sinh xấu ác, tiêu tai trừ nạn, tiêu phục tà trược.
50. Đức Phật Tì Lô Giá Na – Đại Nhật Như Lai:
Là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Phật Bộ ở trung tâm.
51. Đức Bí Mật Tập Hội Kim Cương:
Đức Bí Mật Tập Hội Kim Cương là hoá thân phẫn nộ của Đức Phật A Súc Bệ của Kim Cương Bộ. Trong quá trình sinh ra và trưởng thành, con đã liên tục cô lập mình thành một cái tôi riêng biệt và tạo ra sự tách rời ngày một cứng đặc hơn với “phần còn lại của vũ trụ”.
Tuy thế bên trong con luôn khao khát được hoà nhập trở lại với sự toàn thể này. Đức Bí Mật Tập Hội Kim Cương ban cho sự hướng dẫn để con có thể hoà nhập hoàn toàn vào sự thật bằng con đường hoan lạc.
Sự hoà nhập này bao gồm toàn bộ hiện thực của con, thế giới vật chất, tinh thần và thế giới tâm linh.
Với chỉ một búi tóc, một bầu ngực và một mắt tượng trưng cho chỉ có duy nhất một Sự Thật Tuyệt Đối “Đại Toàn Thiện”.
Ngài là hiện thân của trí tuệ nguyên thủy. Ngài là vị nữ hộ pháp đặc biệt chuyên bảo vệ giáo lý Đại Toàn Thiện.
53. Đức Kim Cương Khủng Bố – Yamataka:
Hay còn gọi là Đức Kim Cương Khủng Bố, là hóa thân phẫn nộ của Đức Văn Thù. Giống như quái vật hung tợn được hồi sinh, vị Phật trong hình tướng phẫn nộ này hướng cơn giận dữ siêu việt của Ngài chống lại các lực lượng của cái chết và sự hủy diệt.
54. Đức Kim Sí Điểu – Garuda:
Đức Kim Sí Điểu – Garuda mình người, có đầu và cánh của chim đại bàng là biểu tượng cho sức mạnh dữ dội, tốc độ, sự dũng cảm và tinh thần thượng võ.
Ngài là một chiến binh hùng mạnh xông tới một cách nhanh chóng và dũng mãnh trước kẻ thù là những con rắn tượng trưng cho vô minh và hiểm độc.
Một lần vỗ cánh của Ngài bay được 336 vạn dặm. Cơn gió tạo ra từ cánh Ngài có thể tạo thành cuồng phong che phủ bầu trời.
Trong nhà Phật, Ngài là một vị Hộ Pháp toàn năng. Người nương tựa đến Ngài có thể tránh khỏi tai nạn và bệnh tật, hàng phục được oan gia, làm tan rã quân địch và gặp được người thân ở phương xa.
Pháp môn của Ngài thường được tu tập cùng với Pháp môn của Đức Kim Cương Thủ và Đức Mã Đầu Minh Vương.
55. Đức Kim Cương Dạ Ma Vương – Yama:
Đức Kim Cương Dạ Ma Vương là vị Hộ pháp trí tuệ của Tối thượng Du già Mật tông.
Thân thể Ngài màu xanh đậm, đầu trâu giận dữ với cái miệng há to. Ngài có ba mắt, hai sừng nhọn hoắt và tóc dựng đứng.
Tay phải Ngài dang ra cầm một chiếc gậy đầu lâu, tay trái hướng lên trên vung dây thòng lọng. Đầu đội vương miện năm đầu lâu khô.
Người quấn tràng hoa năm mươi đầu lâu đẫm máu. Mắt tròn mở to nhìn phối ngẫu đang nhảy múa cùng Ngài. Cả hai Ngài đều đứng trên lưng một con trâu xanh, đang giẫm đạp lên một thân thể đàn ông trần truồng, bao quanh hai Ngài là lửa da cam cháy dữ dội biểu tượng cho ngọn lửa của Sự Tỉnh Thức Nguyên Thuỷ.
56. Đức Bạch Tán Cái Phật Mẫu – Sitatapatra:
Sinh ra từ đỉnh đầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tay Ngài cầm chiếc lọng báu màu trắng, che chở cho tất cả chúng sinh trong cả tam thiên đại thiên thế giới.
57. Đức Như Ý Luân Quan Âm – Cintamani Cakra:
Được biết đến như là: “Người lắng nghe được tiếng khóc của thế giới”, Đức Như Ý Luân Quan Âm luôn đến với con để giúp đỡ con khi con cầu nguyện. Người sẽ giải trừ phiền não, đau khổ trong con và giúp con đạt ước nguyện.
Thân Người màu trắng giống như mặt trăng mùa thu và sáng tỏ như một viên ngọc không tỳ vết. Ngài tỏa ra ánh sáng vô lượng của sự thanh khiết.Ngài là sự thật hoàn hảo, tròn đầy và không thể tách rời với những gì đang hiện hữu. Ở trong mỗi các con đều có một vị Phật từ bi, là Đức Như Ý Luân Quan Âm.
Hãy sống giống như Đức Như Ý Luân Quan Âm – Đức Phật của lòng từ bi tích cực, và hãy tưới mát thế giới này bằng tình thương trong sáng.
(Nguồn: Fanpage Quan Âm Bồ Tát)
Các Vị Bồ Tát Trong Phật Giáo
Xưởng tranh tượng Phật Mandala nêu tên các vị Bồ tát phổ biến trong Phật giáo Đại Thừa, Kim Cương Thừa và Phật giáo Nguyên Thủy
– Quan Thế Âm bồ tát (Avalokitesvara Bodhisattva): Đại diện cho lòng từ bi vĩ đại trong Phật giáo Đại Thừa, là trợ thủ đắc lực thường đứng bên tay trái của đức Phật A Di Đà.
– Đại Thế Chí bồ tát (Mahasthamaprapta Bodhisattva): Đại diện cho ánh sáng trí tuệ trong Phật giáo Đại Thừa, cũng là trợ thủ đắc lực thường đứng bên tay phải của đức Phật A Di Đà.
– Địa Tạng Vương bồ tát (Ksitigarbha Bodhisattva): Bồ tát của chúng sanh cõi địa ngục. Bồ tát này rất phổ biến trong Phật giáo Đại Thừa tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
– Văn Thù Sư Lợi bồ tát (Manjushri Bodhisattva): Đại diện cho trí tuệ hoàn hảo, một vị Bồ tát quan trọng trong Phật giáo Kim Cương Thừa.
– Kim Cương Thủ bồ tát (Vajrapani Bodhisattva): Đại diện cho sức mạnh trong Phật giáo Tây Tạng, ngài là người bảo vệ của Đức Phật, có đầy đủ sức mạnh và sự can đảm của tất cả chư Phật.
– Di Lặc bồ tát (Maitreya Bodhisattva): Vị Bồ tát duy nhất được tôn kính trong Phật giáo Nguyên Thủy. Ngài được cho là vị Phật tương lai sẽ đến trái đất giảng pháp và cứu chúng sinh khi những lời dạy của Phật Thích Ca bị lãng quên.
Khi nói về lòng từ bi và lý tưởng của Bồ tát, chúng ta đang nói về những người bình thường, với thân thể, cái trí, cuộc sống này, những vấn đề…Những người có thể tìm thấy sự quảng đại, nỗ lực và trí tuệ ngay ở đây và bây giờ. Chúng ta nhận ra rằng, Bồ tát là những người luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Họ là một người bình thường tiến vào cuộc đời theo hướng của Đức Phật. Bạn và tôi, thực ra là bất cứ ai hướng sự chú ý, cuộc sống của họ, để thực hành lối sống của một vị Phật đều là Bồ tát.
Bồ tát là một thuật ngữ được phiên âm từ tiếng Phạn Bodhisattva hay Bồ đề tát đỏa trong Hán-Việt. Từ Bodhi có nghĩa là giác ngộ hay thức tỉnh và sattva có nghĩa là một thực thể, bản chất hay tinh thần. Từ Bồ tát có thể được hiểu là “Một người có trí tuệ Bát Nhã” hoặc “Một người có bản chất giác ngộ”.
Nghĩa của từ “Bồ tát” trong tiếng Pali (Bodhisatta) là “Một người cam kết với sự khai sáng”. Từ “satta” có nghĩa là “cam kết, cố định hoặc ý muốn hướng về phía trước”.
Các vị Bồ tát được cho là có phẩm chất tương đồng với các vị Phật về trí tuệ, từ bi và quyền năng. Lòng từ bi thúc đẩy họ giúp đỡ những người khác, sự thông thái cho họ biết cách làm thế nào để đạt hiểu quả cao nhất và quyền năng tích lũy cho phép họ hành động theo những cách kỳ diệu.
Rất nhiều người, ngay cả bản thân tôi thường xuyên cầu nguyện Quan Thế Âm, đọc Chú Đại Bi hay thần chú Om Mani Padme Hum khi gặp khó khăn trong cuộc sống. Bằng một cách nào đó mà tôi không thể giải thích được, mọi khó khăn đều được giải quyết theo một cách tự nhiên và bất ngờ nhất. Tôi xin phép gọi đó là “Sự ngẫu nhiên huyền diệu của Bồ tát”.
Tuy nhiên, hãy coi Bồ tát nhưng một đòn bẫy hay chỗ dựa tinh thần giúp chúng ta vững bước trên con đường thoát khổ. Vì tôi thấy nhiều người chỉ quan tâm đến việc cầu nguyện mà không hành động để biến đổi trạng thái đau khổ của họ, điều này rất nguy hại. Nó cũng giống như bạn ngồi dưới gốc dừa và cầu cho trái dừa rớt xuống để uống vậy.
Bồ tát xuất hiện phổ biến trong văn hoá dân gian như một vị thần cứu rỗi, họ đảm nhận một vai trò thật sự thông qua sự tiến hoá của những ý tưởng trước đây, và thông qua sự hợp nhất với các vị thần trong tín ngưỡng dân gian địa phương.
Một thần thoại đặc biệt quan trọng ở Đông Á là Dharmakara. Theo kinh điển, Dharmakara là một vị Bồ tát mà lời thề nguyện của Ngài đã được nhận ra trước khi trở thành Phật A Di Đà.
Ý nghĩa của Bồ tát trong Phật giáoTrong Phật giáo thời kỳ đầu, Bồ tát có nghĩa là “những kiếp trước của một vị Phật”.
Trong Phật giáo Đại Thừa, Bồ tát là từ đề cập đến những người cam kết đạt được giác ngộ vì lợi ích của chúng sanh. Trở thành Bồ tát là mục tiêu chính của Đại Thừa.
Bồ tát được đề cập trong Phật giáo Đại Thừa như là nhân vật tôn thờ. Các vị Bồ tát như Quan Thế Âm, Địa Tạng Vương hay Văn Thù Sư Lợi là những nhân vật cầu nguyện của đa số Phật tử theo trường phái này.
Trong Phật giáo thời kỳ đầu
Trong Phật giáo thời kỳ đầu tại Ấn Độ và trong một số truyền thống sau đó, bao gồm Phật giáo Nam Tông (Theravada Buddhism) thì thuật ngữ Bồ tát được sử dụng chủ yếu để chỉ những hóa thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong nhiều kiếp quá khứ.
Bồ tát trong các văn bản Phật giáo thời kỳ đầu dùng để chỉ:
Đức Phật lịch sử trước khi giác ngộ
Cuộc sống hiện tại của Đức Phật tương lai Di Lặc (Maitreya – Metteya)
Thuật ngữ Bồ tát ban đầu có nghĩa như “Một con người đang trên đường trở thành một vị Phật”. Những kiếp trước của Bồ tát Thích Ca Mâu Ni được kể trong Pali Jataka, một tập hợp những câu chuyện dân gian mà sau này đã trở thành nền tảng cho các truyện ngụ ngôn của Aesop (nhà văn nổi tiếng của Hy Lạp).
Trong Phật giáo Đại Thừa
Đại Thừa không mong muốn giác ngộ hoàn toàn để thoát khỏi vòng luân hồi. Họ làm như vậy vì lòng từ bi vĩ đại mong muốn giải phóng chúng sinh khỏi đau khổ.
Phật giáo Đại Thừa tin rằng, bất cứ ai thực hiện khát vọng thức tỉnh (Bodhicittotpada) đều có thể trở thành Bồ tát. Theo giáo lý Đại Thừa, trong suốt lịch sử vũ trụ, không có khởi đầu nên không có kết thúc, nhiều người đã cam kết trở thành Phật.
Kết quả là vũ trụ bao trùm một phạm vi rộng lớn các vị Phật tiềm năng, từ những người vừa bước lên con đường Phật quả (Buddhahood), cho tới những người đã trải qua thời gian dài sống trong quá trình tu luyện và do đó, họ đã có được sức mạnh siêu nhiên.
Một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của văn học Phật giáo trong thế kỷ 8 là “Hướng dẫn trở thành Bồ tát” của Shantideva. Bồ Tát Hạnh (Bodhicaryavatara) gồm mười chương chi tiết về việc thực hành các hoàn thiện Ba la mật (paramitas) và rèn luyện Bồ đề tâm (Bodhicitta), nhờ đó một người có thể trở thành Bồ tát.
Kinh điển Đại Thừa dường như đã được phát triển thêm sau này, bởi vì họ nhận ra rằng, một số người mà sao này được gọi “Tiểu thừa” đã thu hẹp khái niệm về con đường Phật giáo. Những người chỉ quan tâm đến việc giải phóng bản thân khỏi đau khổ mà không quan tâm đến phúc lợi của chúng sanh.
Một số người cho rằng, sự định hướng này đã mâu thuẫn với sự nhấn mạnh ban đầu của Đức Phật, rằng các môn đệ của Ngài “đi vì lợi ích của nhiều người”, và với mối quan tâm không mệt mỏi của mình đối với phúc lợi của người khác. Vì vậy, các nhà truyền giáo Đại Thừa đã nhìn lại cuộc đời của Đức Phật để lấy cảm hứng. Trước khi giác ngộ, Đức Phật hay Bồ tát được cho là đã trải qua vô số kiếp sống để phát triển lòng từ bi vĩ đại trong một trí tuệ hoàn hảo.
Các câu chuyện Jataka được đề cập ở trên chứa đựng một bộ sưu tập văn hoá dân gian rộng lớn, trong đó, Bồ tát dù ở dạng con người hay động vật, đều có những hy sinh to lớn trong việc giúp đỡ chúng sinh thoát khỏi đau khổ.
Lấy cảm hứng từ những câu chuyện thần thoại và thực tế của Đức Phật, những người theo Đại Thừa đã đề cao tầm quan trọng của lòng từ bi trong quá trình học và thực hành pháp. Thay vì lý tưởng A la hán, sự giải phóng cá nhân của Phật giáo Nguyên Thủy, lý tưởng Bồ tát là mục tiêu chính của Đại Thừa để đạt được giác ngộ.
Đối với các hành giả Đại Thừa, trí tuệ và từ bi là 2 yếu tố không thể tách rời nếu muốn trở thành một vị giác ngộ hoàn hảo. Để nhìn thấy bản chất thật của thực tại, thì phải biết ý tưởng về các thực thể riêng biệt là một ảo tưởng hết sức nguy hiểm.
Như một nhân vật tôn thờPhật giáo Đại Thừa mở rộng phạm vi các đối tượng tôn thờ trong quá trình hình thành và phát triển trường phái của mình. Đức Phật Thích Ca luôn luôn là một nhân vật tôn kính lớn lao đối với những người theo đạo Phật. Bản thân Ngài cũng khuyến khích việc tôn kính các vị Phật trước cũng như Đức Phật tương lai Di Lặc.
Do đó, nếu nói rằng không có tôn thờ, sùng kính, thờ phụng trong Phật giáo thì không chính xác. Tuy nhiên, Phật giáo Đại Thừa đã mở rộng phạm vi của các hình tượng tôn sùng bằng cách giới thiệu thêm nhiều chư Phật và Bồ tát mới. Tại sao chuyện này lại xảy ra?
Có thể có trường hợp các nhân vật Phật giáo tiền nhân hoặc không phải là Phật giáo nhưng được kết hợp vào truyền thống Phật giáo để làm hình tượng cho sự thúc đẩy trạng thái giác ngộ. Điều này có vẻ như là trường hợp của Kim Cương Thủ, người đã bắt đầu sự sống như một Yaksha, một người bảo vệ của Đức Phật trong một số kiếp quá khứ. Một số học giả cũng cho rằng, Văn Thù Sư Lợi bồ tát bắt đầu như một nhạc sĩ thiên đường, hay các Tara (Lục Độ Phật Mẫu) đã bắt đầu cuộc đời như Durga, một vị thần Bà la môn (Brahmin).
Dường như một số vị Bồ tát trong Phật giáo xuất hiện như những biểu hiện tự phát trong quá trình thực hành thiền định. Đối với những người hành thiền, những hình ảnh có ý nghĩa và ổn định xuất hiện như là kết quả của tâm trí đạt đến trạng thái tinh thần bất bình thường.
Những hình ảnh này được gọi là nimittas. Một vị thiền sư có tinh thần đặc biệt tinh tế có thể nhìn thấy, ví dụ, một hồ nước lấp lánh hoặc một viên ngọc sáng trên một nền đen vô hạn.
Có thể suy đoán rằng, một thiền giả khi có trải nghiệm đặc biệt mạnh với lòng từ bi trong trạng thái thiền, và một tầm nhìn rõ ràng về một nữ thần xinh đẹp, yêu thương đang bước ra từ hoa sen để giúp chúng sinh. Và như thế, Tara được “sinh ra”.
Trong một số trạng thái của thiền, biên giới giữa tâm vô thức và ý thức có thể vượt qua một cách dễ dàng hơn, và tâm trí lúc đó sẽ thấy mọi thứ theo một cách mang tính biểu tượng hơn, như những gì chúng ta thấy trong giấc mơ nhưng với một mức độ chánh niệm sâu sắc chứ không phải ảo giác mơ màng. Một số kinh điển Đại Thừa có thể đã bắt đầu theo cách này.
Những người hành thiền nhiều kinh nghiệm đã khuyến khích người khác suy ngẫm về những hình ảnh tự phát sinh, và do đó truyền thống Nghi quỹ hay Thành tựu pháp (sadhana) được hình thành. Việc hình dung các vị Bồ tát trong thực hành thiền đã được đón nhận rộng rãi.
Kết luận
Bồ tát là những sinh mệnh cống hiến hết mình cho sự đánh thức phổ quát, hay sự giác ngộ của mọi người. Họ tồn tại như các hướng dẫn hay nhà cứu trợ chúng sinh. Họ là những hình mẫu minh họa cuộc sống thánh thiện mà chúng ta phải học hỏi để tiêu trừ đau khổ trên thế giới.
Bồ tát có thể tuyệt vời với sức mạnh, lòng từ bi và trí tuệ, nhưng họ cũng có thể trở nên bình thường như người hàng xóm bên cạnh chúng ta. Bồ tát xuất hiện bất cứ nơi nào mà hành động tốt đẹp được thực hiện.
Trên con đường Bồ tát, chúng ta đi theo những giáo lý về lòng quảng đại, kiên nhẫn, hành vi đạo đức, cân bằng, thiền định, và cái nhìn sâu sắc vào thực tế để biết điều gì là cần thiết để đạt được mục tiêu đó. Vì vậy, chúng ta có thể sống theo một cách có lợi cho người khác và chính mình. Chúng ta học cách từ bi với bản thân và học cách nhận ra rằng, chúng ta không tách biệt với những người mà chúng ta tưởng là xa lạ.
Đối với tôi, Bồ tát không phải là người mà chúng ta nghĩ là họ. Bồ tát chỉ đơn giản là những sinh vật bình thường đang làm theo những lời dạy của đức Phật. Bồ tát xuất hiện trên những nếp nhăn của cuộc đời bạn. Bồ tát đang sống trong khu phố của bạn, chờ đợi để nói lời “Chào buổi sáng” với bạn.
Bồ tát là những vị giảng sư đang làm hết mình cho hạnh phúc của mọi người. Bồ tát là những ông bố bà mẹ ngày đêm chăm lo cho con cái. Bồ tát là những người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ…Bồ tát là cậu bé 8 tuổi đang cố cứu con chim bị rơi xuống nước.
Bồ tát giống như bạn và tôi. Bồ tát không phải là người mà chúng ta nghĩ là họ. Bồ tát không giới hạn trong một số ít các nhân vật đáng kinh ngạc hay những người nổi tiếng. Bồ tát không phải là người mà chúng ta nghĩ là họ. Chúng ta không thể hiểu được Bồ tát tuyệt vời như thế nào. Tất cả chúng ta đều là Bồ tát, trong một khoảnh khắc nào đó của cuộc đời. Khi bạn đang đọc bài viết này, rất nhiều Bồ tát đang giúp đỡ người khác bên ngoài. Họ là những nhân vật kỳ diệu, ban phước cho tất cả chúng sinh.
Trong Phật Giáo Bắc Tông, Tu Sĩ Và Phật Tử Được Đặt Tên Theo Những Nguyên Tắc Nào?
Trong Phật giáo Bắc tông, tu sĩ được đặt tên theo dòng ph ái. Tu sĩ sau khi vào chùa tu, được thầy đặt cho tên, gọi là pháp tự. Tên được đặt dựa vào cá tính của người ấy, có được sau khi đã thọ giới Sa Di giới ( 10 giới), gọi là Giới danh.
Khi đi cầu pháp ở một vị thầy giỏi về giáo lý, sẽ được đặt tên gọi là . Thầy phú pháp đặt tên này để ấn chứng một sự thụ đắc nào đó của người theo học. Có dòng ph ái thường ra hai bài kệ song song, một dùng đặt pháp danh, một dùng đặt pháp hiệu. Tên đặt theo bài kệ gọi là tên Húy ( pháp danh), dùng ghi vào bài vị sau khi người tu sĩ qua đời. Từng chữ trong bài kệ tiêu biểu cho một thế hệ truyền thừa. Như bài kệ của dòng Đạo Bổn Nguyên, có câu đầu là “Đạo Bổn Nguyên thành Phật tổ tiên…”. Chữ Đạo thuộc đời thứ 31 do Đạo Mẫn khai sáng bài kệ. Như vậy, chữ Bổn thuộc đời thứ 32, và chữ thuộc đời thứ 33, như Nguyên Thiều, người có công đầu mang Phật giáo vào Đàng Trong…
Đạo hiệu là tên vua phong. Thụy hiệu là tên đặt sau khi người tu sĩ đã mất. Trong Phật giáo, kh ái niệm là tín đồ không thật sự rõ ràng. Thời Đức Phật còn tại thế, những người chưa xuất gia, cảm mến đường hướng và giáo thuyết của Đức Phất, hỗ trợ cho tăng đoàn phẩm vật, hoặc nghe họ nói pháp… đều được xem là thí chủ. Sau khi đức Phật viên tịch, những người xuất gia có số đệ tử đông đúc, theo từng hệ ph ái riêng. Từ nay, kh ái niệm tín đồ đã tương đối được rõ ràng hơn, còn gọi là Phật tử.
Một tín đồ Phật giáo phải là một người đã tiến hành lễ thọ “tam quy, ngũ giới”. Thọ tam quy là quy y Tam Bảo, tức trở về (quy) dựa vào (y) Tam Bảo ( Phật, pháp, tăng). Thọ ngũ giới là phát nguyện giữ gìn năm giới không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Thọ tam quy ngũ giới, người đó đã được xem là một Phật tử, tu hành tại gia, được đặt cho tên đạo, gọi là pháp danh.
Thông thường, pháp danh được đặt theo chữ đầu của bài kệ thuộc dòng ph ái mà bổn sư truyền giới đã theo. Bổn sư thuộc đời nào thì đệ tử sẽ dưới đó một đời. Nếu bổn sư thuộc thế hệ truyền thừa của dòng Lâm Tế, ph ái Liễu Quán, đời thứ 38 thì đệ tử phải thuộc đời thứ 39. Đấy là cách đặt tên pháp danh áp dụng cho những người đã xuất gia.
Còn đối với Phật tử tại gia, sau ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vào năm 1964, có Hiến chương của giáo hội, cách đặt tên của Phật tử thông thường có chữ đầu là Minh đi kèm với tên, dành cho nam giới và chữ đầu là Diệu, đi kèm với tên, dành cho nữ giới… như nam Phật tử Minh Thọ, nữ Phật tử Diệu Nghĩa…
Đứng đầu các tên là họ Thích, vì được quan niệm theo đạo Phật, tất cả đều là con của Phật, có họ của đức Thích Ca. Tuy nhiên tên gọi có cả họ thường chỉ được dùng cho hàng tăng sĩ đã xuất gia.
Người nam có họ Thích rồi kèm theo pháp danh, người nữ có họ Thích nữ kèm theo pháp danh. Như Hòa thượng Thích Thiện Chiếu, ni sư Thích nữ Như Thanh…
Trong Phật Giáo Bắc Tông,Tu Sĩ Và Phật Tử Được Đặt Tên Theo Những Nguyên Tắc Nào?
Trong Phật giáo Bắc tông, tu sĩ được đặt tên theo dòng phái. Tu sĩ sau khi vào chùa tu, được thầy đặt cho tên, gọi là pháp tự. Tên được đặt dựa vào cá tính của người ấy, có được sau khi đã thọ giới Sa Di giới (10 giới), gọi là Giới danh.
Khi đi cầu pháp ở một vị thầy giỏi về giáo lý, sẽ được đặt tên gọi là pháp hiệu. Thầy phú pháp đặt tên này để ấn chứng một sự thụ đắc nào đó của người theo học. Có dòng phái thường ra hai bài kệ song song, một dùng đặt pháp danh, một dùng đặt pháp hiệu. Tên đặt theo bài kệ gọi là tên Húy (pháp danh), dùng ghi vào bài vị sau khi người tu sĩ qua đời. Từng chữ trong bài kệ tiêu biểu cho một thế hệ truyền thừa. Như bài kệ của dòng Đạo Bổn Nguyên, có câu đầu là “Đạo Bổn Nguyên thành Phật tổ tiên…”. Chữ Đạo thuộc đời thứ 31 do Đạo Mẫn khai sáng bài kệ. Như vậy, chữ Bổn thuộc đời thứ 32, và chữ Nguyên thuộc đời thứ 33, như Nguyên Thiều, người có công đầu mang Phật giáo vào Đàng Trong…
Đạo hiệu là tên vua phong. Thụy hiệu là tên đặt sau khi người tu sĩ đã mất. Trong Phật giáo, khái niệm là tín đồ không thật sự rõ ràng. Thời Đức Phật còn tại thế, những người chưa xuất gia, cảm mến đường hướng và giáo thuyết của Đức Phất, hỗ trợ cho tăng đoàn phẩm vật, hoặc nghe họ nói pháp… đều được xem là thí chủ. Sau khi đức Phật viên tịch, những người xuất gia có số đệ tử đông đúc, theo từng hệ phái riêng. Từ nay, khái niệm tín đồ đã tương đối được rõ ràng hơn, còn gọi là Phật tử.
Một tín đồ Phật giáo phải là một người đã tiến hành lễ thọ “tam quy, ngũ giới”. Thọ tam quy là quy y Tam Bảo, tức trở về (quy) dựa vào (y) Tam Bảo (Phật, pháp, tăng). Thọ ngũ giới là phát nguyện giữ gìn năm giới không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Thọ tam quy ngũ giới, người đó đã được xem là một Phật tử, tu hành tại gia, được đặt cho tên đạo, gọi là pháp danh.
Thông thường, pháp danh được đặt theo chữ đầu của bài kệ thuộc dòng phái mà bổn sư truyền giới đã theo. Bổn sư thuộc đời nào thì đệ tử sẽ dưới đó một đời. Nếu bổn sư thuộc thế hệ truyền thừa của dòng Lâm Tế, phái Liễu Quán, đời thứ 38 thì đệ tử phải thuộc đời thứ 39. Đấy là cách đặt tên pháp danh áp dụng cho những người đã xuất gia.
Còn đối với Phật tử tại gia, sau ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vào năm 1964, có Hiến chương của giáo hội, cách đặt tên của Phật tử thông thường có chữ đầu là Minh đi kèm với tên, dành cho nam giới và chữ đầu là Diệu, đi kèm với tên, dành cho nữ giới… như nam Phật tử Minh Thọ, nữ Phật tử Diệu Nghĩa…
Đứng đầu các tên là họ Thích, vì được quan niệm theo đạo Phật, tất cả đều là con của Phật, có họ của đức Thích Ca. Tuy nhiên tên gọi có cả họ thường chỉ được dùng cho hàng tăng sĩ đã xuất gia.
Người nam có họ Thích rồi kèm theo pháp danh, người nữ có họ Thích nữ kèm theo pháp danh. Như Hòa thượng Thích Thiện Chiếu, ni sư Thích nữ Như Thanh…
Cập nhật thông tin chi tiết về Đặt Tên Con Gái Theo Phật Giáo trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!