Xu Hướng 5/2023 # Đặt Tên Tác Phẩm # Top 8 View | Eduviet.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Đặt Tên Tác Phẩm # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Đặt Tên Tác Phẩm được cập nhật mới nhất trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thứ hai – 20/07/2020 09:01

Viết văn là nghề có từ lâu đời và bao nhiêu tác phẩm đã được tạo ra, khó khăn trong việc đặt tên là nó rất dễ trùng tên với những tác phẩm đã từng tồn tại. Những cái tên đại loại có những cụm từ như: “Lần cuối cùng”, “Đêm cuối”, “Ngày đầu tiên”… đã bị vô số người sử dụng. Nếu lặp lại những cụm từ ấy dễ dẫn đến sự hiểu lầm hoặc lẫn vào trong đám đông hoặc biểu hiện của sự thiếu tìm tòi và sáng tạo.

Không riêng gì tên tác phẩm, ngay cả tên người thiên hạ đã đặt hết cả rồi những cái tên Tuấn, Mai, Hiền, Thảo, Vũ… nhìn đâu cũng thấy. Tìm một cái tên mới không trùng ai và tạo được ấn tượng là điều vô cùng khó khăn, thậm chí trong một số trường hợp là bất khả.

Chính tôi đã rơi vào những trường hợp khóc dở, mếu dở. Tìm được một cái tên ưng ý, trước khi tác phẩm mang đi nhà in thì phát hiện có người dùng cái tên ấy rồi, thế là buộc lòng phải tìm một cái tên khác thay thế, khi sách in ra vẫn không thấy thoả mãn với nó.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần.

Nhưng cũng có rất nhiều người giỏi đặt tên, họ tạo những cái tên rất ấn tượng, đọc lên đã thấy hấp dẫn và gần như không trùng ai. Một trong người đặt tên hay là Nguyễn Ngọc Thuần.

Hãy đọc thử những cái tên tác phẩm của anh mà xem: “Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ”, “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”, “Vào ngày đẹp trời người nhổ khoai mì bị rắn độc cắn”… Mỗi cái tên đều rất gợi, khá dài và mang sẵn một sự khiêu khích nào đó.

Khi được hỏi về cách đặt tên tác phẩm, Nguyễn Ngọc Thuần đã thú nhận rằng, anh thường nghĩ tên tác phẩm trước, khi nào đặt được cái tên hay, ưng ý anh mới bắt đầu viết. Đây là một cách độc đáo và thú vị vì thông thường người ta sẽ nghĩ ra một vài ý tưởng rồi mới viết, cái tên ban đầu chỉ là một phương án chứ không thể quyết định sự viết. Nếu đặt được một cái tên độc đáo rồi mới viết thì điều ấy quả rất lạ hoặc Nguyễn Ngọc Thuần đã nói đùa!

Cách đặt tên dài là một kiểu khá phổ biến thời gian gần đây, đó là một cách chống lại sự trùng lặp và “gây hấn” với độc giả. Hồ Anh Thái cũng là một trong những người đặt tên khá thú vị. Đây là tên một số tác phẩm của anh: “Cõi người rung chuông tận thế”, “Cả một dây theo nhau đi”, “Mua tranh Van Gogh để đốt”… Những tiêu đề của Hồ Anh Thái thường đi thẳng vào nội dung tác phẩm, ít khi ẩn dụ hay ngầm ẩn.

Nhưng không phải bây giờ các nhà văn mới đặt tên tác phẩm dài và tạo một cú huýnh vào tâm lý của độc giả. Các cây bút tiền chiến xưa cũng từng có cách đặt tên khiến người đọc phải giật mình. Vũ Trọng Phụng có những cái tên rất gây sốc: “Kĩ nghệ lấy Tây”, “Làm đĩ”, “Một con chó hay chim chuột”… Chỉ đọc tên tác phẩm đã biết tác giả chơi một cú “vỗ mặt”. Tôi chắc hẳn những dòng tít không biết nể nang này đã góp phần làm nên sự thành công của Vũ Trọng Phụng.

Nam Cao cũng là một người đặt tên hay, ông có những truyện tên rất gợi như: “Cái mặt không chơi được”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Mò sâm banh”… Nhưng không phải tác phẩm nào Nam Cao cũng thành công trong việc đặt tên. Xem lại những lần ông thay đổi tên gọi tác phẩm, ta thấy rằng nhà văn cũng vật vã với nó lắm.

Một tác phẩm xuất sắc của Nam Cao, lần đầu ông gọi nó là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách, nhà xuất bản tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này in lại, ông đổi thành “Chí Phèo”. Và tôi đồ rằng từ ngày được định danh “Chí Phèo”, sự lan toả và danh tiếng của tác phẩm được biết đến nhiều hơn so với hai cái tên ban đầu.

Và chính Nam Cao cũng từng có những cú bẻ ngược khác rất đáng chú ý, một cuốn tiểu thuyết của ông, ban đầu được đặt tên là “Chết mòn”, sau lại đổi tên là “Sống mòn”. Tất nhiên, chết mòn thì quá dễ, sống mòn mới đáng nể!

Một nhà văn nổi tiếng từ thời tiền chiến như Ngọc Giao có những tác phẩm rất trữ tình và dịu dàng như “Phấn hương”, “Cô gái làng Sơn Hạ”… bỗng “huỵch” một phát đặt tên cho một truyện ngắn cái tên rất khiêu khích: “Đời tư Lã Bố”! Có lẽ chính vì cái tên rất khác người này mà tác phẩm này đã được nhiều nhà xuất bản hồi ấy in vào tuyển tập và tôi chắc hẳn độc giả khi nhắc đến cái tên truyện đều không khỏi tò mò, thế mà Ngọc Giao đã đặt tên kiểu đó từ năm 1938!

Nhà văn Hồ Anh Thái.

Đó là những kiểu tên dài và thách thức, có những nhà văn lại thích đặt những cái tên thật ngắn, thậm chí là một chữ. Những kiểu đặt tên này mang lại một hương vị khác lạ, nó ngầm ẩn và thách thức. Nguyễn Bình Phương có “Ngồi”, Nguyễn Ngọc Tư có “Sông”, Nguyễn Đình Tú có “Nháp”…

Các nhà văn nước ngoài nhiều người cũng có cách đặt tên rất hay. Ta có thể vài cuốn đình đám quen thuộc với độc giả Việt. Đó là “Gone with the wind” của Margaret Mitchell – Cuốn theo chiều gió, “For whom the bell tolls” của Ernnest Hemingway – Chuông nguyện hồn ai, “The call of the wild” của Jack London – Tiếng gọi nơi hoang dã…

Có những kiểu tên được đặt theo những khái niệm. Phong cách này thường được các nhà văn cổ điển ưa thích như các cuốn: “Chiến tranh và hòa bình”, “Tội ác và hình phạt”, “Kiêu hãnh và định kiến”, “Lý trí và tình cảm”… Các nhà văn Việt ít khi đặt tên theo kiểu khái niệm vì cho rằng nó quá Tây và cứng nhắc. Nhưng làm gì có khuôn vàng thước ngọc nào cho việc đặt tên, thế này hoặc thể kia!

Cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi phải 7 lần đổi tên vì những lí do khác nhau và tôi cũng muốn nó thuần Việt theo tư duy người Việt nhưng rốt cục tôi đã “nhượng bộ” người biên tập cuốn sách và đặt tên nó là “Tưởng tượng và dấu vết”. Nhiều người bảo cái tên đó trúng, người khác thì nói nó quá cứng! Cũng không thể nào chiều hết mọi người và thậm chí ngay cả những tác phẩm đã rất nổi tiếng, người viết vẫn luyến tiếc về cái tên của nó.

Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh ban đầu có tên là “Nỗi buồn chiến tranh”, sau đó đến nhà xuất bản, biên tập viên đổi là “Thân phận của tình yêu”, lúc tái bản, Bảo Ninh lấy lại tên cũ nhưng sau rốt ông lại thú nhận, giá kể cuốn sách chỉ mang tên “Nỗi buồn” là đủ, thêm từ “chiến tranh” là không cần thiết!

Một kiểu đặt tên ưa thích của người viết là lấy luôn tên nhân vật chính làm tên tác phẩm. Những tác phẩm kiểu này rất nhiều như: “Anna Karenina”, “Bà Bôvary”, “Lão Hạc”, “Hồ Quý Ly”… Kiểu đặt tên này đơn giản và tiện lợi vì nhân vật được tên đặt là nhân vật trung tâm và có ảnh hưởng lớn dễ tạo hình ảnh. Nhưng bây giờ ở các tác phẩm hiện đại, tác giả có khuynh hướng xây dựng nhiều nhân vật chính mà ít có nhân vật trung tâm hoặc nhân vật không đủ nổi bật nên cũng có ít tác phẩm đặt tên kiểu này.

Một câu hỏi đặt ra là tên tác phẩm có nhất thiết phải song hành với nội dung tác phẩm hay không. Tôi cho rằng điều này không nhất thiết. Tên tác phẩm song hành hay không không quan trọng, miễn là nó hay và có những gợi mở. Điều này sẽ phá vỡ được những định kiến và lối mòn đặt tên.

Nhiều tác giả không muốn hé lộ cho độc giả bất cứ điều gì qua cách đặt tên, họ cho rằng, tác giả không việc gì phải tiết lộ nội dung tác phẩm cho độc giả biết qua tiêu đề tác phẩm. Cứ để cho độc giả tự khám phá sẽ hấp dẫn và thú vị hơn. Một vài cái tên kinh điển thuộc thể loại này như: “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco, “Tu viện thành Parma” của Stendhal…

Việc đặt tên tác phẩm giống như dán một cái nhãn hàng hóa, nó rất quan trọng trong việc thu hút độc giả. Ngày nay, văn học bị cạnh tranh khốc liệt với các loại hình khác và chính các tác giả cũng phải có những tư duy mới để có chỗ đứng và neo vào trí nhớ độc giả. Một cái tên hay và hấp dẫn đóng một vai trò nhất định trong sự thu hút này.

Tôi nhớ có lần đạo diễn Lê Hoàng kể, một bộ phim anh đạo diễn có cái tên dự định là “Trường hợp của Hạnh”. Rõ ràng đó là một cái tên quá cứng và khô. Lê Hoàng bảo, đặt tên đó thì “ma” nó mới đi xem phim! Khi đổi tên phim là “Gái nhảy” thì cái tên mới đã tạo được sự hấp dẫn lớn hơn nhiều và bộ phim đã từng là một hiện tượng đáng chú ý.

Tất nhiên, tên tác phẩm chỉ là một phần cấu thành tác phẩm, tên hay mà tác phẩm dở thì không làm gì nổi nhưng đương nhiên một cái tên ấn tượng sẽ có sức lan tỏa mạnh. Cô đọng hoặc khiêu khích, dài dòng hoặc cụt lủn hoặc bất cứ phong cách đặc biệt nào sẽ cộng hưởng với tác phẩm, khiến nó hấp dẫn và được chú ý hơn.

Và lúc này tôi lại nghĩ đến việc người ta đặt tên cho đứa con ruột của mình. Quá trình ấy thường rất lâu và tốn công sức nhưng khi lớn lên chưa chắc đứa trẻ đã hài lòng với cái tên bố mẹ nó đã tâm đắc ấy. Tên một tác phẩm cũng vậy, người viết có khi đắn đo cân nhắc lắm nhưng rốt cuộc khi ra công chúng chưa chắc đã được sự đồng tình, thích thú.

Đặt tên khó lắm, vì rốt cuộc khi đặt tên ta nghĩ đến điều gì? Nghĩ đến tác phẩm hay độc giả? Đừng tưởng đây là một câu hỏi dễ trả lời!

Uông Triều

Đặt Tên Cho Tác Phẩm Nghệ Thuật

Tác phẩm ảnh “Dệt thổ cẩm” của Nghệ sỹ nhiếp ảnh Nguyễn Chính.

Trong một Trại sáng tác ký và truyện ngắn Tuyên Quang, nhà văn Sương Nguyệt Minh từng ví nhan đề như gương mặt của một con người, là cái nổi bật nhất để phân biệt tác phẩm này với tác phẩm khác. Để đặt được một nhan đề sao cho đúng, cho hay, cho độc đáo không phải dễ. Bởi nhan đề vừa phải khái quát ở mức cao về nội dung tư tưởng, vừa phải nói cô đọng được cái “thần”, cái “hồn” của tác phẩm.

Ví như tiểu thuyết “Ma làng”, tác giả Trịnh Thanh Phong đã rất dụng công để tìm được một nhan đề gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu xa, gói gọn được cái thần, cái hồn của tác phẩm. Nhà văn Trịnh Thanh Phong bày tỏ, cuốn sách viết về cuộc sống làng quê, bên cạnh những người dân chân chất thật thà thì vẫn tồn tại những kẻ xấu xa. Đó là lão Tòng với một lô, một lốc con cháu, anh em của lão dùng mọi thủ đoạn mưu mô chước quỷ nắm các chức quyền. Tất cả bọn chúng như những con ma làng, chuyên đục khoét, tham lam làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình yên nơi thôn quê. Từ nội dung đó, tác giả đã khái quát và đặt tên tác phẩm là “Ma làng”.

Các tác phẩm văn học được dụng công ngay từ cách đặt tít.

Nhà thơ Mai Liễu chia sẻ, nhan đề có chức năng định hướng cách đọc, sự tiếp nhận của độc giả với tác phẩm. Nhan đề giống như một dạng mã của thông điệp thẩm mỹ, một mô hình nghệ thuật, sẽ cho độc giả biết trước: Tác phẩm viết về cái gì, có thể đọc nó hoặc nên đọc nó như thế nào… Kinh nghiệm nhiều thi sỹ thường đặt tên bài thơ bằng xúc cảm từ nội dung tác phẩm. Và ngược lại, khi có được tựa đề hay sẽ tạo được mạch nguồn cảm hứng cho chính tác giả. Mai Liễu có loạt bài thơ viết về bản làng với tựa đề đậm chất miền núi, gợi lên nét thân thuộc như: “Suối làng”, “Mây vẫn bay về núi”, “Tìm tuổi”,  “Giấc mơ của núi”.

Đến với nhiếp ảnh, mỹ thuật việc đặt tên tranh, ảnh cũng như đặt tên một tác phẩm văn học. Tên bức tranh phải gợi được ý đồ tư tưởng của họa sĩ, có tính biểu cảm sâu lắng, có chất thơ. Theo họa sĩ Lê Cù Thuần, Phân hội trưởng Phân hội Mỹ thuật, trước khi đặt bút vẽ, họa sĩ phải có chủ đích: Vẽ cái gì? Vẽ để làm gì? Anh cho rằng tên tranh (cái chủ đích) bao giờ cũng phải đặt trước tiên để từ đó việc hình thành tác phẩm sẽ nhanh gọn, tránh lan man. Có như thế mới có được bức tranh giàu tính nghệ thuật và gửi gắm được nhiều thông điệp ý nghĩa.

Điển hình như tác phẩm “Con hạc giấy” thể hiện ước mong của tác giả về cuộc sống hạnh phúc, vui tươi dành cho những gia đình có công với cách mạng. Họa sĩ Lê Cù Thuần chia sẻ, anh lấy tựa đề con hạc giấy và hình ảnh những chú hạc làm trung tâm tác phẩm. Xung quanh là gương mặt bà cụ tay ôm lá cờ đỏ sao vàng trước ngực, suốt đời cống hiến cho Tổ quốc là người cha đi bộ đội trở về mang trong mình di chứng của chiến tranh. Bên cạnh đó là nụ cười ngờ nghệch của người con đã bị nhiễm chất độc da cam. Hình ảnh con hạc giấy tượng trưng cho điều ước về một cuộc sống gia đình hạnh phúc cũng là thông điệp tác giả muốn gửi gắm.

Tác phẩm ảnh “Sương sớm Hồng Thái” của Nghệ sỹ nhiếp ảnh Quang Minh.

Nhiều tác giả nhiếp ảnh lại thích sự đơn giản, dung dị trong đặt tên. Có thể kể đến tác phẩm “Ngày mùa” của Nguyễn Chính, “Sương sớm vùng cao” của Quang Minh, “Cụ già người Mông” của Ma Tuyên… Đi theo lối này, nhiều nhiếp ảnh cho rằng, một cái tên giản dị, không đa nghĩa sẽ dành nhiều “khoảng trống” hơn cho việc thưởng ngoạn của người xem. Tác giả Ma Tuyên chia sẻ, kiểu đặt tên “chụp gì gọi tên thế” có nội hàm cảm xúc và tư tưởng phong phú hơn nhiều. Từ đó, giúp người xem có những phút giây lắng đọng, để cảm thấu được điều tác giả gửi gắm.

Ở mỗi lĩnh vực văn học nghệ thuật sẽ có cách đặt tên riêng cho từng tác phẩm. Đây cũng là quá trình sáng tạo của tác giả, từ đó góp phần cho sự thành công trọn vẹn của tác phẩm.

Dịch Thuật: Cách Đặt Tên Nhân Vật Trong Tác Phẩm

CÁCH ĐẶT TÊN NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM

Hồng lâu mộng được xem là đỉnh cao nghệ thuật của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chỉ riêng về thành tựu đặt tên nhân vật cũng đáng để chúng ta chú ý. Ví dụ như Giả Chính 贾政, nhìn bề ngoài là một người đoan phương chính trực, khiêm cung hậu đạo, kì thực tư tưởng xơ cứng, tình cảm khô khan, đôi lúc hủ hoá, tầm thường chẳng có tài cán gì, nhưng lại muốn mua danh bán tiếng. Chúng ta chỉ cần tư duy về điểm này, dựa vào hài âm thì có thể nhìn thấy tên gọi “Giả Chính” và thân phận của ông ta rất phù hợp. Có thể nói ông ta là “hư giả chính đạo” 虚假政道, có thể nói ông ta là “quân tử chính nhân giả tạo”, tức đơn giản thường nói là “nguỵ quân tử”, là đã tiếp cận ngụ ý của tác giả.

Nhìn cách đặt tên bình thường cho các a hoàn trong tác phẩm cũng đáng để chúng ta suy ngẫm.

Bốn vị tiểu thư có chữ “xuân” 春 trong Giả phủ có 4 a hoàn là Tư Kì 司棋, Bão Cầm 抱琴, Thị Thư 侍书 và Nhập Hoạ 入画. Vừa nghe qua 4 tên này, nếu để một người không có tố chất văn hoá phẩm bình, đương nhiên họ cảm thấy hoàn toàn xa lạ, thậm chí không biết ý gì. Nhưng nếu thay đổi giác độ, trước tiên bước vào không gian rộng lớn mà 4 vị tiểu thư sinh sống, hoặc giả nói chỉ cần bước vào một góc nhỏ thì cũng có thể thấy được hàm ý sâu xa trong cách đặt tên cho 4 a hoàn. Yêu thích kì cầm thư hoạ phải là đặc trưng chung của các tiểu thư quý tộc, tên của 4 a hoàn đã cho thấy tính tình, sự hứng thú cùng tố dưỡng văn hoá của tiểu chủ nhân của họ.Cách đặt tên 4 a hoàn rất tuyệt diệu, nhưng không phải chỉ có thế, mà còn ở chỗ 4 động từ “tư” 司, “bão” 抱, “thị” 侍, “nhập” 入 trước 4 chữ “kì”棋, “cầm” 琴, “thư” 书, “hoạ” 画. Bốn động từ này không chỉ nói rõ địa vị chung mà 4 a hoàn đang có, mối quan hệ giữa họ với tiểu thư của mình, mà còn cho thấy đặc điểm và khí chất khác nhau của họ. Đối với “kì” 棋 là “tư” 司, đương nhiên hiển lộ sự thung dung nhã trí; đối với “cầm” 琴là “bão” 抱, hiển lộ điệu bộ nhu mì; đối với “thư” 书 là “thị” 侍 hiển lộ nét dịu dàng trang nhã; đối với “hoạ” 画 là “nhập” 入, hiển lộ tư thái xinh đẹp. Việc đặt tên một cách nghệ thuật này không phải là tiện tay mà có, nếu không có cấu tứ nghệ thuật tinh vi, không có kỉ xảo biểu hiện cao siêu thì không thể nào đạt tới. Ở đây, chúng ta không ngại so sánh với tên những nhân vật không xa lạ trong một số hí khúc tiểu thuyết cổ điển, viết về a hoàn thì công thức hoá, khắc hoạ tính cách loại hình hoá, đơn giản là những tên như “Xuân Hương” 春香, “Thu Cúc” 秋菊, “Đông Mai” 冬梅, đâu đâu cũng có, nếu so với tên nhân vật trong Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần 曹雪芹 thì tên nhân vật trong Hồng lâu mộng không chỉ thoát khỏi khuôn mẫu có sẵn, mà về trình độ nghệ thuật cũng vượt xa người xưa. Chẳng trách mà Lỗ Tấn 鲁迅, bậc đại sư về nghệ thuật ngôn ngữ rất giỏi việc đặt tên cho nhân vật đã nói:

Sau khi xuất hiện “Hồng lâu mộng”, cách viết và tư tưởng truyền thống đã bị đả phá

( Lỗ Tấn toàn tập , quyển 9 phụ lục Trung Quốc tiểu thuyết đích lịch sử biến thiên )

Hai a hoàn của Lâm Đại Ngọc 林黛玉 là Tuyết Nhạn 雪雁 và Tử Quyên 紫鹃. Từ ý nghĩa mà cảm thụ, “tuyết trung cô nhạn” 雪中孤雁 (chim nhạn lẻ loi trong tuyết), “đỗ quyên đề huyết” 杜鹃啼血 (chim đỗ quyên kêu rỏ máu), đã cho người đọc một cảm giác cô tịch bi thương lạnh lẽo. Từ âm thanh mà cảm nhận, hai tên này khiến người đọc có thêm cảm giác và không khí u uất trầm buồn. Ở đây từ góc độ âm vận học Hán ngữ mà phân tích, 4 âm tiết “tuyết nhạn” “tử quyên” (cũng là 4 chữ) đều thuộc “tế âm” 细音, hơn nữa đều thuộc “tề xỉ âm” 齐齿音 và “toát thần âm” 撮脣音. Âm lượng cơ bản nhỏ (không giống “hợp khẩu âm” 合口音, đặc biệt là “khai khẩu âm” 开口音 vang to). Từ đó âm sắc và tình điệu thể hiện ra đương nhiên là u uất trầm buồn.

Tiểu thư Lâm Đại Ngọc mà 2 a hoàn này hầu hạ chẳng phải là luôn sống trong tình cảnh như thế sao? tình cảm ở mọi lúc mọi nơi chẳng phải luôn u buồn sao? (còn tiếp)

TÁC PHẨM NHÂN VẬT ĐÍCH MỆNH DANH

Tác giả: Vương Trạch Thụ 王泽树

Thanh Hải nhân dân xuất bản xã, 2005.

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Chiếc Lược Ngà

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà, Mời các bạn cùng tham khảo một số bài văn mẫu lớp 9: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà, đây là một tài liệu vô cùng

Chiếc lược ngà là một tác phẩm của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nói về tình cảm cha con vô cùng thiêng liêng.

Hôm nay chúng tôi xin mời tất cả các bạn cùng tham khảo một số bài văn mẫu lớp 9: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà. Đây là tài liệu vô cùng hữu ích giúp cho các bạn có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 9 của mình.

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà – Mẫu 1

Với bé Thu “chiếc lược ngà” là kỷ vật của người cha, là nỗi nhớ thương mong nhớ của người cha nơi chiến khu dành cho mình. Cầm chiếc lược trong tay, bé Thu được sưởi ấm bởi tình cha, như có người cha ở bên.

Với ông Sáu, Chiếc lược ngà đã trở thành một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương mong đợi của người cha và làm dịu đi nỗi ân hận đã đánh con của ông. Trao cây lược cho con, ông Sáu như đã nói với được với con gái yêu tình cảm của mình.

Chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu nặng mà còn gợi cho người đọc thấm thía những mất mát, éo le đau thương do chiến tranh gây ra cho bao gia đình.

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà – Mẫu 2

Chiếc lược ngà trong tác phẩm là kỷ vật cuối cùng người cha gửi tặng cho con trước lúc hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà – Mẫu 3

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ra đời năm 1966 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt ở chiến trường Nam bộ, truyện ca ngợi tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, qua nhân vật chính anh Sáu và bé Thu, trong đó chi tiết hình ảnh “chiếc lược ngà” rất quan trọng, là hình ảnh trở đi trở lại trong tác phẩm, chiếc lược ngà là kỉ vật cuối cùng mà anh Sáu dành cho con, là chứng minh cho tình cảm hai cha con, không chỉ vậy, chiếc lược ngà còn là biểu tượng cho sự hy vọng, niềm tin, là quà tặng của người đã khuất, là kỷ vật thiêng liêng. Hơn cả nó là biểu tượng độc đáo cho tình phụ tử. Vì vậy mà nhan đề “chiếc lược ngà” vô cùng ý nghĩa, Giải thích nhan đề truyện ngắn “chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà – Mẫu 4

Cập nhật thông tin chi tiết về Đặt Tên Tác Phẩm trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!