Xu Hướng 6/2023 # Nguồn Gốc Tên Tiếng Anh Các Ngày Trong Tuần # Top 12 View | Eduviet.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Nguồn Gốc Tên Tiếng Anh Các Ngày Trong Tuần # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Nguồn Gốc Tên Tiếng Anh Các Ngày Trong Tuần được cập nhật mới nhất trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Như chúng ta đã biết, tiếng Anh có nguồn gốc từ nhiều thứ tiếng khác nhau. Ảnh hưởng của những ngôn ngữ này cũng được nhìn thấy trong tên các ngày trong tuần của tiếng Anh ngày nay.

Một tuần lễ có 7 ngày là do người Babylon nghĩ ra, chính thức xuất hiện trong cuốn lịch của người La Mã vào năm 321 trước Công nguyên, dưới thời của Đế vương Constantine.

 

Những người La Mã cổ đại đã đặt tên 7 ngày trong tuần theo tên các vị thần mà họ đặt tên cho các hành tinh. Những tên gọi này đã được thay thế bằng các từ tương tự trong tiếng Anh. 

Sunday (Chủ nhật) – Từ cổ tiếng Anh của từ này là Sunnandæg, được dịch ra từ tiếng La tinh dies solis. Từ này mang nghĩa “sun’s day.” (ngày của Mặt trời)

Monday (Thứ 2) – Từ này trong tiếng Anh cổ là Mōnandæg, được dịch ra từ dies lunae trong tiếng La tinh. Từ này mang nghĩa ”moon’s day.” (ngày của Mặt trăng).

Tuesday (Thứ 3) – Trong tiếng Anh cổ, nó là Tīwesdæg, với nghĩa ”Tiw’s day.” Tiw là thần Týr trong thần thoại Bắc Âu, vị thần chiến tranh thường xuất hiện với một bàn tay. Trong tiếng Latinh, ngày này được gọi là dies Martis, kết hợp với Mars (sao Hoả), vị thần chiến tranh La Mã.

Wednesday (Thứ 4) – Trong tiếng Anh cổ, từ này có tên gọi Wōdnesdæg. Đó là ngày của Odin, vị thần quyền lực nhất trong thần thoại Bắc Âu. Trong tiếng Latin, nó là dies Mercurii hoặc ngày của Mercury (sao Thuỷ), một vị thần nổi tiếng với người La Mã. Odin và Mercury là những vị thần khác nhau, nhưng cả hai đều được biết đến với khả năng thần kỳ của họ.

Thursday (Thứ 5)– Tên gọi xuất phát từ tiếng Anh cổ là Þūnresdæg, có nghĩa là “Þunor’s day.” Þunor có nghĩa là sấm sét, và vị thần được gọi theo tên gọi này là thần Thor, vị thần sấm set theo thần thoại Bắc Âu. Tiếng La tinh tương ứng là dies Iovis, hoặc “day of Jupiter.” Jupiter, sao Mộc, theo người La Mã là vị thần đại diện cho bầu trời và sấm sét.

Friday (Thứ 6)– Trong tiếng Anh cổ nó được gọi là Frīgedæg với nghĩa ”the day of Fríge.” (ngày của Frige) Fríge vị nữ thần được biết đến như vợ của Odin. Ngược lại, theo tiếng La tinh thì từ này là dies Veneris hay “day of Venus.” (ngày của thần Venus). Venus, sao Kim, thần Vệ nữ là nữ thần biểu tượng cho tình yêu và sắc đẹp. 

Saturday (Thứ 7) – This name still reflects its Roman origin. In Latin, it was dies Saturni or “day of Saturn.” Saturn is the Roman god of time, harvest, and agriculture. Tên gọi này cho biết nguồn gốc La Mã của nó. Trong tiếng Latin, nó là dies Saturni  hoặc “day of Saturn.” (“ngày của sao Thổ.”) Saturn là thần La Mã chuyên trông coi mùa vụ và nông nghiệp.

Các Tháng Trong Năm, Các Ngày Trong Tuần: Nguồn Gốc Tên Gọi &Amp; Những Ý Nghĩa

Từ thời cổ đại, con người quan sát sự chuyển dời của thời gian bằng cách ghi nhận sự xoay vòng của mặt trăng, hay còn gọi là tuần trăng, với một tuần trăng tương đương với 29.530588 ngày (tức là 29 ngày 12 giờ 44 phút và 3 giây). Do vậy nếu dò theo ngữ nguyên thì chữ moon và month đều xuất phát từ cùng một gốc ngữ hệ Ấn-Âu menes (từ này chỉ cả hai nghĩa moon và month). Trong một năm có mười hai tháng, với tên tiếng Anh lần lượt là January, February, March, April, May, June, July, August, September, October, November, và December. Nếu để ý thấy thì chữ September có tiếp đầu ngữ sept- mang nghĩa là thứ bảy, tức đây là tháng thứ bảy, trong khi September hiện nay được mang nghĩa là tháng chín. Nguyên do là từ thời La-mã cổ đại, ban đầu người ta làm lịch chỉ có mười tháng, từ March đến December, không có January và February. Tên gọi mười tháng đó vào thời La-mã cổ đại là: Martius, Aprilis, Maius, Juniius, Quintilis, Sextilis, September, October, November, và December; với sáu tháng cuối là các từ Latin để chỉ các con số từ 5 đến 10. Sau đó Numa Pompilius đã thêm vào hai tháng January vào đầu năm và February vào cuối năm, tới năm 452 trước Công nguyên thì February được di chuyển nằm giữa January và March.

January: Bắt nguồn từ tiếng Latin Ianuaris, từ này bắt nguồn từ chữ ianua (nghĩa là “door”), và có liên hệ với vị thần hai đầu Janus, một vị thần bảo hộ chuyên đứng giữ cửa. Theo nhiều học giả thì Janus là vị thần của sự khởi thuỷ, là vị thần đầu tiên trong số các vị thần xuất hiện ở các nghi thức tế lễ. Do vậy mà mọi sự bắt đầu của ngày, tháng, và năm đều được liên hệ với ông ta. Tháng đầu tiên trong năm, January, theo đó mà được đặt theo tên ông ta, với ngụ ý rằng đó là thời điểm mà ông ta với hai cái đầu có thể nhìn về năm cũ cũng như hướng đến năm mới.

Tên gọi của tháng theo các ngôn ngữ khác: Pháp janvier, Tây-ban-nha enero, Bồ-đào-nha Janeiro, Ý gennaio, Đức Januar (ở Đức và Thuỵ-sĩ) hoặc Janner (ở Áo), Wales Ionawr, tiếng Scots Gaelic an Faoilteach, Ireland Eanáir.

Tên gọi của tháng theo các ngôn ngữ khác: Pháp mars, Tây-ban-nha marzo, Bồ-đào-nha Março, Ý marzo, Đức März, Wales Mawrth, tiếng Scots Gaelic am Màrt, Ireland Márta.

April: Chữ Latin là Aprilis, và người ta cho rằng nó xuất phát từ chữ Apru, là tiếng Etruscan (một chủng người cổ đại sống tại vùng đất là nước Ý ngày nay), đuợc mượn từ Aphro, dạng viết tắt của Aphrodite, nữ thần Hi-lạp. Do vậy, theo dân La-mã, thì Aprilisđuợc xem như là “tháng của nữ thần Venus” Ngoài ra nó còn có một ngữ nguyên khác liên hệ với chữ aperir (nghĩa là “to open”) theo như việc các nụ và bông hoa nở ra vào thời điểm này trong năm tại thành Rome.

May: Từ chữ Latin Maius, đặt theo tên Maia, nữ thần sinh trưởng của La-mã, vợ của thần lửa Vulcan (tên Maia này có thể cùng một nguồn với chữ Latin magnus, nghĩa là “large”).

June: tên Latin Iunius của tháng này được bắt nguồn từ tên vị nữ thần Juno của La-mã. Tên của tháng này theo tiếng Scots Gaelic có nghĩa là “tháng non trẻ” (the young month), nhưng một cái tên khác được ghi nhận là Meadhan-Samhraidh “midsummer” (giữa hè); tên tháng này trong tiếng xứ Wales cũng mang nghĩa tương tự, và tên tháng trong tiếng Ireland thì có nghĩa là “ở giữa” (middle)

Tên gọi của tháng theo các ngôn ngữ khác: Pháp juillet, Tây-ban-nha julio, Bồ-đào-nha Julho, Ý luglio, Đức Juni, Wales Gorffennaf, Scots Gaelic an t-Iucbar, Ireland Iúil.

October: Tên Latin của tháng này October chỉ ra rằng ban đầu thì tháng này là tháng thứ tám trong năm (xuất phát từ chữ octo, “số tám”). Tên tháng trong tiếng Wales, ban đầu là hyddfref, nghĩa là tiếng bò rống; trong tiếng Scots Gaelic thì nghĩa là “thời kì động đực” (rutting time), bắt nguồn từ chữ damh, nghĩa là “con bò”; trong tiếng Ireland thì có nghĩa là “cuối thu” (end of autumn).

November: Tên Latin của tháng này November chỉ ra rằng ban đầu thì tháng này là tháng thứ chín trong năm (xuất phát từ chữ novem, “số chín”). Trong tiếng Wales thì tên tháng này mang nghĩa là “sát sinh” (slaughter); tương tự vậy, người Hà-lan dùng nghĩa đó để gọi tháng này slachtmaand, bởi vì người ta giết thú vật trong tháng này, và trong Old English còn bảo lưu một từ biến thể của người ngoại đạo blomonap, nghĩa là “tháng hiến tế” (sacrifice month). Một từ khác trong tiếng Wales là y mis du, “tháng tối tăm” (black month), từ này được ghi nhận trong tiếng Scots Gaelic (am mìos dubh).

Ngày đầu tiên của tháng này là một sự kết thúc cho vụ mùa, là cái ngày mà các bầy thú trở về từ các đồng cỏ và sự chiếm hữu đất đai được gia hạn. Nó cũng là thời điểm mà người ta tin rằng linh hồn của những người đã khuất sẽ trở về thăm viếng gia đình. Người ta đốt lửa mừng trên đỉnh đồi để thắp lên lại ngọn lửa ấm áp gia đình cho mùa đông và để xua đuổi những linh hồn xấu xa, và thỉnh thoảng họ mang mặt nạ và hoá trang để những hồn ma không thể nhận ra họ. Đó chính là lễ hội Samhain của người Celts, và cũng là nguồn gốc của lễ Halloween hiện nay, vốn được tổ chức vào đêm 31/10. [1]

Năm là đơn vị chỉ thời gian, và hơn nữa nó còn mang tính biểu tượng. Năm là một kiểu hình cho mọi quá trình có chu kì (như một đời người, sự trỗi dậy và suy tàn của nền văn hoá, chu kì vũ trụ). Biểu tượng hình tròn của năm thường được nằm gói gọn trong một hình vuông với bốn góc là bốn nhân vật tượng trưng cho bốn mùa trong năm. Tấm thảm thêu về Sự sáng tạo trong nhà thờ Gerona là một ví dụ hoàn hảo cho hình ảnh đó. Trong truyền thống Trung-hoa thì vòng tròn biểu tượng của năm được chia thành hai phần bằng nhau, tương ứng với bóng tối/cái chết và ánh sáng/sự sống. Từ thời xa xưa thì người ta tin rằng mỗi người đều phải trải qua một quá trình tái sinh hàng năm, từ tháng Mười hai cho đến tháng Sáu, biểu tượng cho cái chết và sự phục sinh. [2]

Bảng 1 – Tên các ngày trong tuần (hình lấy từ cuốn The History of Time: A Very Short Introduction)

Một tuần bảy ngày là đơn vị thời gian được người ta tạo ra không căn cứ trên khía cạnh thiên văn. Nguồn gốc của đơn vị tuần lễ này được liên hệ với người Do-thái cổ đại và ghi chép kinh thánh về Sự sáng tạo, theo đó thì Chúa làm việc trong sáu ngày và nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Tuần lễ của người Do-thái xoay quanh ngày Sabbath, là ngày thần thánh và là ngày nghỉ của người Do-thái, bắt đầu từ buổi hoàng hôn Thứ sáu cho đến buổi đêm về vào ngày kế tiếp (tức là ngày Thứ bảy). Tuy nhiên giới nghiên cứu đã chứng minh được rằng người Do-thái có lẽ đã mượn ý tưởng về tuần lễ này từ những người ở vùng Lưỡng-hà, vì người Sumer và người Babylon chia một năm thành những tuần bảy ngày. Và từ người Babylon đến người Ai-cập, rồi người La-mã đặt tên mỗi ngày trong tuần theo tên của những hành tinh theo một chuỗi bảy hành tinh quan sát được bằng mắt thường: Mặt trăng (Moon), sao Thuỷ (Mercury), sao Kim (Venus), Mặt trời (Sun), sao Hoả (Mars), sao Mộc (Jupiter), và sao Thổ (Saturn).

Trong các ngôn ngữ trên, thì tên các ngày trong tuần theo tiếng của xứ Wales khá giống tiếng Latin hơn cả, vì tiếng Wales là ngôn ngữ còn sót lại của thời Roman Britain (nước Anh của La-mã), do vậy còn giữ được tên của các hành tinh sát với gốc Latin còn hơn cả những ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Romance (ngữ hệ bắt nguồn từ Latin) như Pháp, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, v.v.

Theo tiếng Latin thì ngày đầu tiên được đặt theo tên ngày Mặt trời (Sun) (dies Solis), ngày thứ nhì là cho ngày Mặt trăng (Moon) (dis Lunae), ngày thứ ba là ngày sao Hoả (Mars) (dies Martis), ngày thứ tư là ngày sao Thuỷ (Mercury) (Mercurii), ngày thứ năm là ngày sao Mộc (Jupiter) (dies Iovis), ngày thứ sáu là ngày sao Kim (Venus) (dies Veneris), và ngày thứ bảy là ngày sao Thổ (Saturn) (dies Saturni). Tên các hành tinh ở thời La-mã là bản phiên dịch từ tiếng Hi-lạp, và Hi-lạp là từ tiếng Babylon, Babylon thì từ Sumer:

Bảng 2 – Tên các hành tinh [4](Nguồn: http://www.friesian.com/week.htm)

Có một điều thú vị trong tên các ngày bằng tiếng Latin là bảy hành tinh được xếp theo chuỗi tăng dần bắt đầu từ ngày Monday và tăng tiến lên theo từng khoảng hai ngày trong vòng hai tuần: Monday (Moon), Wednesday (Mercury), Friday (Venus), Sunday (Sun), Tuesday (Mars), Thursday (Jupiter), Saturday (Saturn). Để hiểu nguyên do vì sao thì ta quay ngược thời gian trở về Ai-cập thời Plotemy, lúc này các nhà chiêm tinh định ra rằng mỗi giờ sẽ ứng với một hành tinh theo thứ tự giảm dần về mặt khoảng cách đối với Trái đất, lần lượt là Saturn, Jupiter, Mars, Sun, Venus, Mercury, Moon, và mỗi ngày thì ứng với hành tinh đại diện cho giờ đầu tiên của ngày đó; bởi vì một ngày bao gồm 3×7+3 giờ, bắt đầu là Saturn, nên ngày đầu tuần vào thời đó được tính là ngày Saturday, do đó sang ngày hôm sau thì giờ đầu tiên rơi vào Sun, thành Sunday, ngày hôm sau nữa rơi vào Moon, thành Monday, v.v..

Mặc dù sau này, Kitô giáo lấy khái niệm tuần lễ của người Do-thái và đổi ngày Sunday lại thành “ngày của Chúa” (Lord’s day – dies Dominicus), nhưng vị hoàng đế đầu tiên của đế chế La-mã Công giáo, Constantine, vào năm 321 đã ban sắc lệnh rằng vào ngày Sunday thì không kiện tụng gì cả, ông ta không gọi ngày đó là “ngày của Chúa” mà gọi là “ngày mà mặt trời được tôn thờ” ( diem solis ueneratione sui celebrem).

Trong số các ngôn ngữ của Tây Âu, thì ngoại trừ tiếng Bồ-đào-nha tiếp thu hoàn toàn cách đặt tên của Kitô giáo. Còn lại các ngôn ngữ khác thuộc ngữ hệ Romance chỉ giữ lại cách đặt tên của “ngày của Chúa” (Pháp, dimanche / Tây-ban-nha, domingo / Ý, domenica) và ngày “Sabbath” (samedi / sábado / sabato), những ngày còn lại trong tuần vẫn giữ cách đặt tên theo các hành tinh.

Trong các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Germanic (tiếng Đức cổ), thì có một số thay đổi so với tiếng Latin. Như tiếng Anh, các ngày Sunday, Monday, Saturday vẫn được đặt theo tên các hành tinh, còn những ngày khác thì đặt theo tên các vị thần của dân tộc Germanic cổ:

Tuesday được đặt tên theo thần Týr (Old English viết là Tiw hay Tiu), vị thần chiến tranh và bầu trời (tương ứng với thần Mars bên La-mã), ngày này trong tiếng Thuỵ-điển hay Đan-mạch lần lượt là tisdag và tirsdag, còn tiếng Đức là Dienstag.

Wednesday đặt theo tên của thần Woden (còn có một tên thông dụng khác là Odin), tương ứng với thần Mercury bên La-mã, và cách đặt tên này qua bên tiếng Hà-lan là woensdag, tiếng Thuỵ-điển và Đan-mạch onsdag. Tuy nhiên trong tiếng Đức thì có sự thay đổi nữa, là ngày này người Đức gọi là Mittwoch (tức là midweek, giữa tuần)

Thursday đặt tên theo thần Thor, thần sấm sét, cũng từ tên vị thần này mà có từ tiếng Anh thunder.

Friday đặt theo tên thần Frigg, trong thần thoại Scandinavia thì Frigg là vợ của Odin và là nữ thần của hôn nhân và sự sinh sản, tương ứng với thần Venus bên La-mã.

Người Slav (những dân tộc thuộc khu vực trung và đông của châu Âu) thì áp dụng một hệ thống đặt tên khác. Ngày Sunday được họ gọi là nedelja, ngày “không-làm-việc” (not-work). Tuy nhiên từ đó lại có nghĩa là “week” trong tiếng Nga, và người Nga thì gọi ngày Sunday là voskresene, “sự phục sinh” (một dạng từ khác của từ Voskresenie, nghĩa là “ngày Phục sinh” (Easter)), ngày Monday được gọi là ponedel’nik, nghĩa là “ngày sau nedelja “. Ngày Saturday trở thành “Sabbath”, ngày Wednesday mang nghĩa là “giữa tuần”, còn những ngày Tuesday, Thursday, và Friday thì mang tên bắt nguồn lần lượt từ nghĩa “hai”, “bốn”, và “năm”, vì họ đếm bắt đầu từ ngày Monday chứ không phải từ ngày Sunday. Người Lithuania và Latvia cũng bắt đầu đếm các ngày trong tuần từ ngày Monday.

Còn trong tiếng Việt, thì các ngày trong tuần từ Monday đến Saturday được gọi lần lượt là Thứ hai, Thứ ba, cho đến Thứ bảy, còn ngày Sunday có hai cách gọi “chúa nhật” hoặc “chủ nhật”, tức “Lord’s day”. Nếu ta so với bảng 1, thì thấy cách gọi này về mặt ý nghĩa giống hệt như cách gọi trong tiếng Latin của nhà thờ Kitô giáo (Church Latin), và trong ngôn ngữ hiện đại ngày nay thì giống với cách gọi của tiếng Bồ-đào-nha: từ feria ở đây theo tiếng Latin ban đầu có nghĩa là “free days” (những ngày rảnh rỗi), nhưng sau đó chuyển thành nghĩa “feast days” (những ngày lễ hội), và rồi vì một lí do nào đó mà từ feria này được dùng để chỉ các ngày trong tuần. Nhắc lại lịch sử thì vào đầu thế kỉ 17, các nhà truyền giáo Bồ-đào-nha sang Việt-nam, và những người này đã có vai trò cực kì quan trọng trong việc hình thành chữ Quốc ngữ hiện nay, do đó việc tên gọi các ngày trong tuần có ý nghĩa trùng khớp với bên tiếng Bồ-đào-nha là điều hoàn toàn hợp lí và có cơ sở về mặt lịch sử.

Chú thích:

(Nguồn: http://www.friesian.com/week.htm)

[1] “Halloween.” Encyclopædia Britannica. Encyclopaedia Britannica Ultimate Reference Suite. Chicago: Encyclopædia Britannica, 2010. [2] Cirlot, J. E. “Year.” A Dictionary of Symbols. 2 nd ed. London: Routledge, 1971. [3] Cirlot, J. E. “Week.” A Dictionary of Symbols. 2 nd ed. London: Routledge, 1971. [4] Coi thêm tên các hành tinh theo nhiều ngôn ngữ khác nhau: Planetary Linguistics, http://nineplanets.org/days.html

Encyclopædia Britannica. Encyclopaedia Britannica Ultimate Reference Suite. Chicago: Encyclopædia Britannica, 2010.

Ayto, John. Word Origins. 2nd edition. London: A & C Black, 2005.

Blackburn, Bonnie & Leofranc Holford-Strevens. The Oxford Companion to the Year. New York: Oxford University Press, 1999.

Cirlot, J. E. A Dictionary of Symbols. 2nd ed. London: Routledge, 1971.

Holford-Strevens, Leofranc. The History of Time: A Very Short Introduction. New York: Oxford University Press, 2005.

Ross, Kelly L. “The Days of the Week.” The Proceedings of Friesian School, the Fourth Series. 2005. <http://www.friesian.com/week.htmp

Nguồn: https://chiecnon.wordpress.com/2011/01/05/cac-thang-trong-nam-cac-ngay-trong-tuan/

Các Tháng Trong Tiếng Anh Và Nguồn Gốc Ý Nghĩa

Không phải tự nhiên các tháng trong tiếng Anh lại mang trên mình những tên gọi khác nhau. Lý do đơn giản bởi, các tháng có nguồn gốc và ý nghĩa đặc biệt.

Trước đây, người La Mã thường gắn tên của các vị thần linh trong huyền thoại vào bất cứ thứ gì đó tồn tại trong đời sống thường ngày. Mỗi vị thần đều gắn với các tháng để tạo nên sự khác biệt. Bạn có thể cùng KIS English tham khảo nguồn gốc của các tháng như sau:

Tháng 1- January

Thần Janus được gọi là thần gác cửa. Thần Janus có hai mặt để tiện lợi cho việc canh gác hai mặt của cùng một lối nên gắn với tháng thứ nhất trong năm. Tháng giêng hay tháng 1 trong năm gắn liền với ý nghĩa januarius mensis. Trước thế kỷ 14, cụm từ được người Anh sử dụng với dạng Gevenen. Từ 1391, tháng giêng được gọi January.

Tháng 2 – Februar

Februar là một lễ hội nổi tiếng được tổ chức vào tháng hai hàng năm phải kể đến. Lễ hội này vào đầu thế kỷ 13 còn được người Anh gọi với cái tên thân mật là Federer và chuyển thành Feoverel chỉ sau một thời gian ngắn sau đó. Vào năm 1373, để có lối chính tả đơn giản, dễ viết, người Anh đã gọi tháng 2 là Februar. Tên gọi dành cho tháng 2 này vẫn được người dân Anh và trên cả nước gọi cho đến ngày nay.

Tháng 3 – March

Tháng được nhiều người ưa chuộng với tiết trời đẹp, xanh phải kể đến March. Bởi, vị thần gắn liền với chiến tranh có tên là Mars. Tên gọi này xuất phát từ marz tên tiếng Pháp. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 13 tiếng Anh gọi tháng 3 bằng cái tên thân mật March.

Tháng 4 – April

Tiếng La Tinh cho rằng, April là tháng hoa nở đầu xuân. Trước đây, tháng 4 được gọi Aprilis trong tiếng La Tinh và tiếng Pháp gọi Avril. Bước vào thế kỷ 13, tháng 4 được gọi với cái tên mới là Averil. Tuy nhiên, tên gọi này chỉ tồn tại đến năm 1375 đã được thay đổi. Từ thời gian đó đến nay, tháng 4 trong tiếng anh có tên gọi April.

Tháng 5 – May

Tháng 5 là tháng mang tên của nữ thần người La Mã – Maia. Tên magnus có nguồn gốc từ La Tinh mang trong mình ý nghĩa của sự tăng trưởng. Tuy nhiên, tên gọi này đã kết thúc vào đầu thế kỳ thứ 12. Bởi, dựa trên tiếng Pháp từ Mai, người Anh đã gọi tháng 5 là May.

Tháng 6 – June

Tên June được sử dụng để gọi tên tháng 6 từ thế kỷ 11 đến nay. Tên gọi này được vay mượn từ La Tinh bắt nguồn từ Junonius. Vị thần Juno đại diện cho những nữ giới mạnh mẽ, quyền lực cùng sự hạnh phúc trong hôn nhân, do đó được nhiều người chú ý. Chính điều này đã cho ra đời tên gọi June để nói riêng về tháng 6, tránh lẫn với các tháng trong tiếng Anh khác.

Tháng 7 -July

Vị hoàng đế người La Mã có tên Carsare được sinh ra vào tháng 7. Người này có trí lực siêu phàm, có công cải lịch La Mã. Dựa trên tên Julius Caesar, người dân Anh đặt tên tháng 7 là July để tưởng nhớ vị hoàng đế này.

Tháng 8 – August

Tên của người tự xưng là vị thần Julius Caesar được nhiều người sử dụng nhưng cũng có sự cải biến đáng kể. Nổi bật nhất trong đó, Augustus Caesar cháu của vị hoàng đế tài đức này đã lấy tên mình để gọi tên một trong các tháng trong tiếng Anh. Vì vậy, tên August được sử dụng bắt nguồn từ thời gian đó cho tới tận hôm nay.

Các Tháng Còn Lại

Các tháng 9 đến 12 mang trên mình tên gọi dựa trên quy luật đặc biệt. Cụ thể như sau:

– Tháng 9 là September, gốc La Tinh gọi là bảy.

– Tháng 10 gọi October nhưng gốc La Tinh chỉ nghĩa tháng 8.

– Tháng 11 gọi November nhưng gốc La Tinh chỉ nghĩa là 9.

– Tháng 12 gọi là December nhưng gốc La Tinh chỉ nghĩa tháng 10.

Bạn chắc chắn dễ dàng tìm thấy quy luật đặt tên các tháng này khi tham gia các khóa học tiếng Anh online tại KISS English. Dựa vào các khóa học này bạn có thể nhớ lâu hơn nguồn gốc ra đời và ý nghĩa của các tháng trong tiếng Anh. Video review lớp học tiếng Anh bạn có thể tham khảo như sau:

Ý Nghĩa Của Các Tháng Trong Tiếng Anh

Các tháng trong tiếng Anh mang một ý nghĩa nhất định. Nếu bạn chưa biết ý nghĩa của các tháng như thế nào có thể tham khảo khi học từ vựng tiếng Anh online như sau:

Ý Nghĩa January (Tháng 1)

January mang ý nghĩa đặc biệt. Đây là tháng đầu tiên của năm mới được gắn với tên vị thần thời gian. Vị thần này có thể nhìn được quá khứ và tương lai, hiện tại.

Ý Nghĩa February (Tháng 2)

February mang ý nghĩa thanh trừ. Các phạm nhân đều bị xử hành quyết vào tháng này nên người ta gọi thanh trừ. Đồng thời, February còn có ý nghĩa nhắc nhở mọi người hãy sống lương thiện, tránh gây ra lỗi lầm. Tháng này có số ngày thấp hơn các tháng khác 1-3 ngày.

Ý Nghĩa March (Tháng 3)

March là vị thần của chiến tranh, là cha của Ro Myl và Rem. Chính hai người con này đã xây dựng nên thành phố Rim nổi tiếng trong truyền thuyết xưa. Thời gian gần đây, thành phố được gọi với tên mới Roma.

Ý Nghĩa April (Tháng 4)

Ý nghĩa ấn tượng nhất của các tháng trong tiếng Anh phải kể đến April. Bởi, April mang ý nghĩa về quãng thời gian tươi đẹp của thiên nhiên khi cây cối đâm chồi nảy lộc.

Ý Nghĩa May (Tháng 5)

May lấy tên của vị thần đất. Đồng thời, tháng này còn mang ý nghĩa của sự phát triển, của sự phồn vinh, thịnh vượng.

Ý Nghĩa June (Tháng 6)

Tháng 6 – June mang tên của nữ thần Ju-no-ra-la-vơ. Thần thoại Hy Lạp đã nhiều lần khẳng định vị thần June còn có tên gọi khác là Hera.

Ý Nghĩa July (Tháng 7)

July là tên gọi lấy theo vị hoàng đế La Mã Ju-li-us-le-sar. Vị hoàng đế này có nhiều công lao to lớn trong việc cải cách ra lịch dương. Tháng này được đánh giá đặc biệt nhất thuộc các tháng trong tiếng Anh.

Ý Nghĩa August (Tháng 8)

August được lấy theo tên vị hoàng đế Au-gus của La Mã. Vị hoàng đế này có công lớn trong việc sửa chữa lịch chủ tế. Tháng này được cộng thêm 1 ngày vào lịch tổng có 31 ngày.

Ý Nghĩa September (Tháng 9)

September có ý nghĩa là số 7. Số 7 này tương đương với tháng thứ 7 trong một năm. Tuy nhiên, ý nghĩa này lại được dùng để chỉ tháng 9 tính theo dương lịch.

Ý Nghĩa October (Tháng 10)

October có ý chỉ những tháng chẵn cuối năm nhưng theo lịch cũ chỉ tháng 8. October mang ý nghĩa của sự no đủ, an nhàn, hạnh phúc và may mắn.

Ý Nghĩa November (Tháng 11)

November lịch cũ chỉ tháng 9 trong năm. Tháng này mang ý nghĩa của sự no đủ, ấm áp. Tháng 9 vì vậy được nhiều người yêu thích.

Ý Nghĩa December (Tháng 12)

December dùng để chỉ tháng 10 trong năm nhưng trong từ vựng tiếng Anh chỉ tháng 12 của năm. Tháng này biểu thị cho sự kết thúc của một năm qua, tạo tiền để bước sang năm mới.

Khái quát nhất về các tháng trong tiếng Anh cùng ý nghĩa, nguồn gốc ra đời của các tháng đã được KISS English chia sẻ kể trên. Dựa vào đó bạn có thể nắm bắt thêm những kiến thức cần biết cho mình.

Nếu bạn có nhu cầu cải thiện trình độ tiếng Anh hãy chọn tham gia luyện nghe tiếng Anh,luyện nói tiếng Anh tại KISS English theo địa chỉ:

Top 5 bài viết học tiếng Anh online hay nhất

Đây là các bài viết được nhiều người đọc nhất trong tháng:

7 Ngày Trong Tuần Trong Tiếng Anh Mang Ý Nghĩa Gì? – Speak English

Ngày Chủ Nhật (hay Chúa Nhật) (Sunday) ngày đầu tiên trong tuần, ngày của vị thần thân thiết nhất, quan trọng nhất đó là Mặt Trời và ứng với thứ kim loại quý nhất là vàng (gold). Từ Sunday là từ ngữ dịch sang từ từ tiếng Latin dies solari với ý nghĩa là ‘Ngày của Mặt trời’- ‘Day of the Sun’. Theo Gia-tô giáo ngày này là ngày đi lễ, hay còn gọi là Sabbath day – ngày xaba (ngày nghỉ ngơi và thờ phụng Chúa).

Ngày Thứ Hai (Monday) là ngày thứ hai trong tuần. Từ ngữ Monday là dịch từ từ tiếng Latin ”dies lunae” nghĩa là ‘Ngày của Mặt trăng’ – ‘Day of the Moon’. Ngày thứ Hai được dành cho vị thần canh giấc ngủ đêm đêm cho con người, đó là Mặt Trăng và tương ứng với nó là nguyên tố kim loại bạc (silver), thứ kim loại quý thứ hai sau vàng. Tiếng Anh là Monday, tiếng Đức là Montag có nghĩa là ngày Mặt Trăng.

Ngày Thứ Ba (Tuesday) dịch từ từ tiếng Đức “Tiu’s Day”. Tiu là vị thần cai quản bầu trời và chiến tranh (the Scandinavian deity Thor) theo phong tục của các dân tộc sống ở Bắc Đức và bán đảo Scandinavia (người Norse). Theo tiếng Latin, ngày thứ Ba được ứng với sao Hỏa ‘Day of Mars’ và nguyên tố tương ứng là sắt (iron). Bởi sao Hỏa được coi là thần của chiến tranh mà vũ khí, áo giáp đều làm bằng sắt. Ngày nay người Pháp gọi là Mardy, còn người Tây Ban Nha gọi là Martes. Tiếng Anh là Tuesday, đây được coi là ngày của những chiến binh, của nam giới.

Ngày thứ Tư (Wednesday) bắt nguồn từ từ tiếng Anh cổ ”Woden’s Day”. Woden là vị thần cao nhất của người Đức cổ (Teutonic) theo cổ tích luôn dẫn dắt những người thợ săn. Ngày thứ Tư tiếng Anh là Wednesday, tiếng Pháp gọi là Mercredi, tiếng Tây Ban Nha là Mercoles có nghĩa là ngày của sao Thủy (“Day of Mercury“) . Sao Thủy được coi là vị thần của thương mại. Theo hình dung của người xưa, đây là vị thần thường xuyên phải đi nhiều nên nguyên tố tương ứng là thủy ngân (mercury). Thứ kim loại nặng, dễ di động.

Ngày Thứ Năm (Thursday) dịch từ tiếng Latin “dies Jovis” (Jupiter’s day- ngày của thần sấm (God of Thunder). Chữ Thursday bắt nguồn từ chữ “thunor” nghĩa là sấm (thunder). Ngày thứ Năm người Pháp gọi là Jeudi, người Tây Ban Nha gọi là Juebes là ngày dành cho chúa tể của các vị thần linh, ứng với đó là sao Mộc và kim loại đi kèm là kẽm (zinc). Bởi kẽm có tính chất không gỉ nên nó đặc trưng cho sức mạnh khôn cùng của sao Mộc – vị thần sấm chớp. Có lẽ vì vậy mà ngày thứ Năm người Đức gọi là Donnerstag, nghĩa là ngày sấm chớp. Còn trong tiếng Anh nó là Thursday.

Ngày Thứ Sáu (Friday) xuất xứ từ chữ “Freya”, tên nữ thần tình yêu và sắc đẹp (the goddess of love and beauty) của người Norse. Ngày thứ Sáu người Pháp gọi là Vendredi, người Tây Ban Nha gọi là Biernes có nghĩa là ngày của sao Kim. Hành tinh này được coi là tượng trưng cho nữ thần của tình yêu. Ứng với sao Kim là nguyên tố kim loại đồng (copper), một kim loại mềm dẻo, phản xạ những tia sáng lấp lánh. Các dân tộc ở Bắc Âu gọi nữ thần tình yêu là Fray, vì thế người Đức gọi thứ Sáu là Freitag và người Anh gọi là Friday. Đây được coi là ngày của nữ giới.

Ngày Thứ Bảy (Saturday) và cũng là ngày cuối cùng của tuần bắt nguồn từ chữ Latin “dies Saturni”, với nghĩa là ‘Day of Saturn’. Saturn là tên của vị thần La Mã (the Roman god Saturn) phụ trách nông nghiệp đồng thời là tên của hành tinh thứ 6 trong hệ mặt trời. Saturday còn được coi là ngày của sao Thổ, vị thần mà theo quan niệm của người xưa là gây ra các nỗi bất hạnh, đau khổ về mặt tinh thần cho con người. Nên ứng với nó là nguyên tố chì (lead), một kim loại độc hại. Trong các ngôn ngữ ở châu Âu hiện nay chỉ còn tiếng Anh giữ nguyên được gốc tên gọi của sao Thổ (Saturn) để chỉ ngày thứ Bảy – Saturday.

Cập nhật thông tin chi tiết về Nguồn Gốc Tên Tiếng Anh Các Ngày Trong Tuần trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!