Bạn đang xem bài viết Ông Già Và Biển Cả – Tác Phẩm Tiêu Biểu Của Nguyên Lý Tảng Băng Trôi được cập nhật mới nhất trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
“Ông già và biển cả” là một trong những tác phẩm hay nhất của nhà văn Mỹ, Ernest Miller Hemingway. Ở tác phẩm này ông đã áp dụng triệt để “nguyên lý tảng băng trôi” nổi tiếng của ông vào tác phẩm. Và ngược lại, tác phẩm cũng là “tảng băng trôi” với sự nghiệp văn chương của Hemingway. Một tác phẩm nhỏ nếu tính theo số lượng chữ nhưng lại đem tới cho ông sự nổi tiếng và những giải văn chương danh giá nhất: Ông đã nhận được Giải Pulitzer năm 1953, và Giải Nobel Văn học năm 1954. Không những thế nó còn là một trong những tác phẩm nổi bật nhất lịch sử Nobel Văn học.
Thế nào là nguyên lý tảng băng trôi?
“Nguyên lý tảng băng trôi” là dựa theo đặc tính của tảng băng trôi: ba nổi, bảy chìm. Thể hiện vào văn chương là biểu hiện của một dạng văn chương “tinh giản”, chỉ thể hiện một cách tối thiểu nhất, nhưng lại bộc lộ được tối đa dụng ý của tác giả muốn truyền tải đến người đọc, thậm chí nhiều hơn thế.
Trước khi “Nguyên lý tảng băng trôi” ra đời, các tác phẩm tiểu thuyết thường khá đồ sộ, thường từ 800 – 1000 trang trở lên. Nhiều nhà văn khi ấy có quan niệm rằng một tác phẩm lớn thì trước tiên phải có một khối lượng chữ đồ sộ nên cố ý viết càng dài, càng chi tiết càng tốt. Điều này dẫn tới việc độc giả theo dõi khá mệt mỏi và cũng không phù hợp với đời sống hiện đại, khi con người sống vội vã hơn, cuộc sống bề bộn hơn và thời gian đọc ít hơn. Việc ra đời các tác phẩm theo “nguyên lý tảng băng trôi” của Hemingway là rất đúng thời điểm.
Hemingway áp dụng “Nguyên lý tảng băng trôi” vào văn chương như thế nào?
Hemingway trước khi trở thành là văn thì ông là một nhà báo. Hơn thế nữa, ông còn là một phóng viên khi còn rất trẻ, 18 tuổi, cho tờ The Kansas City Star.
Là một phóng viên thì cần phải tốc ký để nhanh chóng ghi lại sự việc, sự kiện,. Nên lối tư duy của nhà báo là mọi câu chuyện cần được ghi nhanh nhất, tóm tắt nhất, nhưng vẫn phải chính xác nhất. Đây chính là lối tư duy để Hemingway áp dụng vào văn chương và được gọi là “Nguyên lý tảng băng trôi”.
Ta có thể thấy trong các sáng tác của mình Hemingway thường sử dụng các câu văn ngắn, gọn và sáng nghĩa, không hề có chi tiết rườm rà. Ông cũng cắt đi tất cả những lí luận dài dòng, ông miêu tả nội tâm nhân vật phần nhiều qua hành động. Điều đó khiến nhân vật của ông vừa rất sinh động, nhưng cũng không kém phần sâu săc.
“Nguyên lý tảng băng trôi” trong Ông già và biển cả
Có thể nói Ông già và biển cả là tác phẩm được Hemingway áp dụng nguyên lý “Tảng băng trôi” triệt để nhất và cũng là tác phẩm đạt đến độ “chín” nhất trong phong cách văn chương của ông.
Không chỉ là một câu chuyện đánh cá
Đến với Ông già và biển cả, độc giả sẽ theo dõi hành trình kéo dài ba ngày để bắt được con cá kiếm khổng lồ vô cùng khó khăn của ông lão Santiago. May mắn đã mỉm cười khi ông đã đánh được một con cá kiếm đẹp nhất, to lớn nhất trong cuộc đời của mình. Nhưng rồi những con cá mập đã lao vào để làm sạch con cá của ông già. Và thật đáng buồn, khi cuộc hành trình kết thúc, kết quả duy nhất mà ông lão có được là một bộ xương vô dụng.
Nội dung câu chuyện đơn giản, nhưng ẩn chứa trong đó là những tầng ý nghĩa sâu sắc và thông điệp ý nghĩa đến độc giả. Đây là nguyên tắc “tảng băng trôi” mà nhà văn đã sử dụng triệt để trong tác phẩm của mình, giúp câu chuyện không còn đơn thuần nói về một ông già câu cá. Không giống như các tác phẩm khác chỉ phác họa một thông điệp duy nhất, Ông già và Biển cả là một loạt các ý nghĩa biểu tượng trong suốt tác phẩm.
Gợi ý đầu tiên phải kể đến là chi tiết về hành trình kiếm cá của ông già. Con đường chinh phục cá kiếm thực sự là con đường chinh phục giấc mơ của con người, giấc mơ có màu hồng, nhưng con đường lại không bằng phẳng. Có những thứ tưởng chừng nó thuộc về ta và ta rất cố gắng nắm nó trong lòng bàn tay, nhưng rốt cuộc vẫn để vuột mất.
Cao trào của câu chuyện được đẩy lên việc ông lão chiến đấu một mình với cá mập để bảo vệ chiến lợi phẩm của mình. Đúng như mong đợi của một nhà văn tài năng, Hemingway đã mang đến sự hồi hộp cho độc giả. Khi đọc, dường như người đọc hòa cùng hơi thở của ông già, như thể đang đứng lên chiến đấu với những con cá mập tàn nhẫn. Rồi khi cuộc chiến kết thúc, chúng ta chợt nhận ra hình ảnh quen thuộc của mình trong câu chuyện của ông già. Ta dũng cảm, không đầu hàng trước số phận, không chịu khuất phục trước khó khăn, nhưng số phận không phải lúc nào cũng mỉm cười với ta.
Cuộc chiến với số phận là cuộc chiến không cân sức. Cũng như cuộc chiến của ông lão vậy. Ngay từ khi con cá mập đầu tiên xuất hiện, ta đã biết trước được số phận của con cá kiếm rồi. Con cá kiếm đáng thương đã bị lũ cá mập rỉa sạch thịt, điều duy nhất còn sót lại cho ông lão chỉ là một bộ xương. Cái kết mà nhà văn xây dựng đã khiến nhiều bạn đọc hụt hẫng, thậm chí nhiều người còn phẫn nộ thay cho nhân vật trung tâm câu chuyện. Thế nhưng, chúng ta buộc phải nhìn nhận một điều rằng: đây không phải một câu chuyện cổ tích.
Có lẽ Hemingway không muốn xây dựng một mẫu chuyện nơi mà mọi nàng công chúa đều được sống hạnh phúc bên hoàng tử, ý nghĩa của kết truyện này còn sâu xa hơn thế. Điều cuối cùng mà đại văn hào của nền văn học Mỹ muốn thể hiện qua tác phẩm này chính là lột tả cuộc sống không như mơ. Quả thật, cuộc đời chúng ta đang sống chưa bao giờ chỉ khoác lên mình một màu hồng rực rỡ mà còn được phủ bởi sự tàn nhẫn và bất công.
Mặc cho ông lão đã chiến đấu kiên cường đến đâu, con cá cũng không còn nguyên vẹn, cũng giống con người, không phải cứ cố gắng thì sẽ có thành công.
Tác phẩm nhỏ, “dung lượng” lớn
Ông già và Biển cả dài khoảng 150 trang, so với các tác phẩm kinh điển khác thì rất ngắn, có thể chỉ so với một số truyện dài chứ chưa thể được gọi là “tiểu thuyết”. Nhưng theo nhiều người đánh giá, Ông già và Biển cả có “dung lượng” của một cuốn “tiểu thuyết lớn”.
Toàn bộ tác phẩm chỉ xoay quanh câu chuyện câu cá, bối cảnh truyện diễn ra trong khoảng 3 ngày. Câu cá là một sự việc khá đơn điệu, nhưng với tài năng của mình, Hemingway đã triển khai nó thành một câu chuyện vô cùng cuốn hút và cũng vô cùng chân thực. Một ông già trên dưới 80 tuổi, chân tay đã yếu, lại hơi nghễnh ngãng vì tuổi già. “Mọi thứ trên người lão đều toát lên vẻ già nua, trừ đôi mắt”. Ở độ tuổi “thất thập cổ lai hi” như thế, trước đại dương bao la, trước con cá kiếm lớn nhất của cuộc đời, làm sao ông có thể chiến thắng được?
Đây chính là yếu tố làm nên sự hấp dẫn của câu chuyện, nhưng cũng là yếu tố then chốt để thể hiện tài năng của Hemingway. Ông phải viết sao cho thuyết phục được người đọc, ông không thể mang sức mạnh của một thanh niên trai tráng vào cơ thể già nua ấy, cái mà thuyết phục người đọc chính là kinh nghiệm đi biển của ông lão Santiago, cũng chính là kiến thức và kinh nghiệm của tác giả. Qua câu chuyện, người đọc có thể nhận thấy ông lão Santiago tuy già, nhưng kinh nghiệm cực kỳ phong phú, ông biết cách để chiến thắng con cá kiếm khổng lồ với đôi tay, ý chí và của mình. “Cuộc sống này chỉ thực sự kết thúc khi chúng ta thôi không còn ước mơ, thôi không còn hy vọng.”
Trong cuộc chiến đấu với con cá kiếm, ta có thể nhận thấy giới hạn sức lực của ông lão Santiago cũng như cảm giác được độ tuổi của ông với những sự nghễnh ngãng, mông lung chợt hiện trong tư tưởng. Đây cũng chính là một yếu tốt tạo ra tính hồi hộp, hấp dẫn của tác phẩm. Người đọc luôn dõi theo, luôn lo lắng và luôn đặt câu hỏi: liệu rằng với tuổi như thế ông có thể chiến thắng? Và một chiến thắng kịch tính, đầy mãn nhãn đã làm thỏa lòng tất cả người đọc.
“Ông già và biển cả” thực sự là một “tảng băng trôi” của nền văn học thế giới. Một tác phẩm với nội dung ngắn gọn, nhưng càng tìm hiểu, ta càng thấy độ kỳ vĩ của nó. Một tác phẩm ngắn gọn nhưng lại là kết tinh những gì tinh túy nhất của một đời nhà văn Hemingway.
Đông Tuyền (TH)
Chia sẻ bài viết
Ông Già Và Biển Cả
Từ trước đến nay, đề tài thiên nhiên và con người luôn là một nguồn cảm hứng bất tận của các nhà văn. Từ những tác phẩm đề cao việc sống hòa mình vào thiên nhiên như “Cuộc sống trong rừng” của Henry David Thoreau, “Cuộc cách mạng Một-cọng-rơm” của Masanobu Fukuoka cho đến những tác phẩm miêu tả sự rộng lớn của thiên nhiên theo lời kể của những con vật, từ “Đồi thỏ” của Richard Adams đến “Tiếng gọi nơi hoang dã” của Jack London, tất cả những tác phẩm đó đều phô bày một thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng rất đỗi khắc nghiệt,và đương nhiên, “Ông già và biển cả” của Ernest Hermingway cũng không nằm ngoài bức tranh đó.
Theo chân Santiago, một người đánh cá như Hemingway miêu tả là “Ông lão gầy gò, giơ cả xương, gáy hằn sâu nhiều nếp nhăn. Những vệt nám vô hại trên làn da má của lão do bị ung thư bởi ánh mặt trời phản hồi trên mặt biển nhiệt đới. Những vệt ấy kéo dài xuống cả hai bên má, tay lão hằn những vết sẹo sâu bởi kéo những con cá lớn. Nhưng chẳng có vết nào trong số sẹo ấy còn mới cả, chúng cũ kỹ như mấy vệt xói mòn trên sa mạc không cá.”, chúng ta chứng kiến cuộc nói chuyện giữa người đánh cá già và một cậu bé, và theo cách họ nói chuyện, hai người chắc chắn có một mối quan hệ thân thiết, giống như mối quan hệ ông – cháu hay “Giữa hai người đàn ông” như cách họ nói”. Tuy vậy, đây lại là một cuộc nói chuyện không mấy vui vẻ, Santiago đã 84 ngày rồi không bắt được một con cá nào, và bố mẹ của cậu bé Manolin cũng không cho cậu đi câu với ông nữa. Vậy là, đến cuối cùng của cuộc trò chuyện, ông lão đã quyết định rằng ngày mai, ông sẽ ra khơi, lần cuối cùng, đi xa, xa mãi, đến tận vùng Giếng Lớn với hy vọng mong manh rằng mình sẽ bắt được cá to. Và chuyến đi câu ba ngày hai đêm ấy, ông đã gặp may, một con cá kiếm đã cắn câu, một con cá lớn đến mức ông chưa bao giờ nhìn thấy. Nhưng đó chỉ là khởi đầu, hành trình chinh phục con cá kiếm to lớn và đẹp nhất đời là một hành trình cực kì gian khổ. Đến khi ông bắt được con cá rồi thì lại tới bọn cá mập phá đám, cho dù Santiago có cố gắng chống trả đến thế nào, thì cuối cùng cái ông nhận được khi về đến nhà chỉ là một bộ xương vô hồn vô dụng.
Trong tác phẩm Hemingway đã xây dựng được một hệ thống hình tượng nhân vật rất ấn tượng. Trước hết, nó nằm trong chính nhan đề tác phẩm.“Ông già và biển cả” là một nhan đề có sức khơi gợi sâu xa. Trong cái nhan đề ấy như ẩn chứa khát vọng, hoài bão của con người trong cuộc đời rộng lớn.
Con cá kiếm, khi còn sống là một thực thể rất, rất đẹp. Nó xuất hiện qua những vòng lượn. Nó làm cho lão già Santiago phải mệt lử, chân tay đau nhức, đầu óc choáng váng. Vẻ đẹp lấp lánh, vây đen có pha sọc màu tím của nó khiến Santiago phải thán phục. Ông đã từng thốt lên ” Tao chưa thấy ai hùng dũng, cao thượng hơn mày”. Ông phải giết con cá nhưng lại ta thiết cầu khẩn “Đến đây! Đến đây để giết ta này, ta không quan tâm việc ai giết ai nữa.”.
Nhưng khi lão phi lao vào con cá, và nó lao vút mình lên khỏi mặt nước để phô diễn vẻ đẹp của mình lần cuối cùng, rồi nằm lặng lẽ trong một vũng máu loang lổ, thì Santiago lại thấy nuối tiếc. Cái ông nhận được là một cái xác cá, một thứ rất tầm thường, nếu có khác chỉ là một cái con cá to mà thôi. Bây giờ, khi con cá phơi cái bụng trắng hếu của mình lên khỏi mặt nước, nó không còn đẹp nữa, cho dù vẫn là vẻ lấp lánh ấy, cái vây đen có pha sọc màu tím ấy, nhưng cái vẻ đẹp ấy nó quá trần trụi, nó không còn vẻ bí ẩn như những ngày đầu, giống như việc con cá bây giờ đã có một chiều dài chính xác, chứ không còn hùng vĩ khó đoán định như ở những vòng lượn đầu tiên. Con cá, biết đâu cũng giống như giấc mơ của mỗi chúng ta. Nhìn từ xa, nó rất đẹp đẽ, hào nhoáng, nhưng đến khi chạm tay vào rồi mới thấy rằng nó thật gần gũi, giản đơn. Có chăng chỉ là chúng ta đã đi quá xa để tìm kiếm những ảo mộng, mà không suy xét, lường trước đến giá trị thật sự của những ước mơ đầy vẻ cao xa, huyền bí đó. Hoặc cũng có thể, cuộc đời là một giấc mơ không hồi kết, con người thấy không bao giờ là đủ, mà lúc nào cũng muốn đi đến những chân trời xa hơn, hào nhoáng hơn, đáng khát vọng hơn. Phải vậy không nhỉ ? Ông lão đánh cá Santiago, chính là biểu tượng của những người lao động – những con người luôn luôn hăng hái đi tìm kiếm và chinh phục ước mơ của bản thân mình. Họ mưu trí, gan dạ, bản lĩnh, dám đương đầu và không chùn bước trước khó khăn để đến được với giấc mơ. Tuy vậy, họ phải đương đầu với giông tố cuộc đời, với những kẻ thù, với những mối nguy hiểm khó đoán định, và phải tự mình vươn lên để khẳng định chỗ đứng trong xã hội. Cho dù như vậy, họ là những con người không bao giờ chịu khuất phục. Dù có rơi vào cảnh ngộ sức cùng lực kiệt đến đâu chăng nữa, chỉ cần còn sống, họ vẫn dốc toàn lực ra mà chiến đấu để để có thể tồn tại đúng nghĩa một con người. Họ sống để khẳng định một điều, ngay cả lúc khốn cùng nhất của số phận, con người vẫn biết ngẩng cao đầu, kiên trì chịu đựng để vượt qua. Và đây, là ý nghĩa sống tích cực nhất cho mọi lẽ sống : Con người có thể bị hủy diệt chứ không bao giờ chịu khuất phục. Đối với một số bạn đọc, việc Hemingway để cho đàn cá mập đói khát ăn hết con cá của Santiago là một hành động nhẫn tâm. Phải, hành động đó rất tàn nhẫn, ông lão Santiago đã rất vất vả để có được con cá kiếm đó, nhưng vậy mới là cuộc sống. Đây là một minh họa hoàn hảo cho câu tục ngữ “Chiếm thành thì dễ nhưng giữ thành mới khó”, có những khi ta tưởng ta đã nắm được ước mơ của bản thân trong lòng bàn tay, nhưng những thế lực bên ngoài, như những con sói đói, nhảy xổ vào, không ngần ngại mà giật nó khỏi tay ta. Với những lần thất bại đó, kẻ thì gục ngã, còn người lại dùng nó như một động lực để thúc đẩy bản thân với ý nghĩ “Lần này nhất định sẽ làm được”. Nhưng thiết nghĩ, nếu ông lão mang về một con cá nguyên vẹn, thì những người dân chài đâu thể biết được rằng ông đã phải chiến đấu với bầy cá mập hung hãn để giành lại được. Có thể khi ta thất bại, cái ta cần sẽ tuột khỏi tay, nhưng thứ đến với ta lại quý giá hơn nhiều, đó chính là sự thừa nhận của xã hội đối với nỗ lực mà ta đã bỏ ra. Ernest Hemingway, với cách hành văn theo nguyên lí “Tảng băng trôi” – ba nổi bảy chìm, chỉ dựa vào một câu chuyện 123 trang từ tác phẩm Ông già và biển cả về chuyến đánh cá cuối cùng của một ông lão mà vẽ cho chúng ta một bức tranh của hiện thực, trần trụi đến phũ phàng, nhưng lại cũng đầy tính nhân văn.
Học sinh Nguyễn Thị Thanh Tú lớp 7A2
Đặt Tên Tác Phẩm
Thứ hai – 20/07/2020 09:01
Viết văn là nghề có từ lâu đời và bao nhiêu tác phẩm đã được tạo ra, khó khăn trong việc đặt tên là nó rất dễ trùng tên với những tác phẩm đã từng tồn tại. Những cái tên đại loại có những cụm từ như: “Lần cuối cùng”, “Đêm cuối”, “Ngày đầu tiên”… đã bị vô số người sử dụng. Nếu lặp lại những cụm từ ấy dễ dẫn đến sự hiểu lầm hoặc lẫn vào trong đám đông hoặc biểu hiện của sự thiếu tìm tòi và sáng tạo.
Không riêng gì tên tác phẩm, ngay cả tên người thiên hạ đã đặt hết cả rồi những cái tên Tuấn, Mai, Hiền, Thảo, Vũ… nhìn đâu cũng thấy. Tìm một cái tên mới không trùng ai và tạo được ấn tượng là điều vô cùng khó khăn, thậm chí trong một số trường hợp là bất khả.
Chính tôi đã rơi vào những trường hợp khóc dở, mếu dở. Tìm được một cái tên ưng ý, trước khi tác phẩm mang đi nhà in thì phát hiện có người dùng cái tên ấy rồi, thế là buộc lòng phải tìm một cái tên khác thay thế, khi sách in ra vẫn không thấy thoả mãn với nó.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần.
Nhưng cũng có rất nhiều người giỏi đặt tên, họ tạo những cái tên rất ấn tượng, đọc lên đã thấy hấp dẫn và gần như không trùng ai. Một trong người đặt tên hay là Nguyễn Ngọc Thuần.
Hãy đọc thử những cái tên tác phẩm của anh mà xem: “Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ”, “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”, “Vào ngày đẹp trời người nhổ khoai mì bị rắn độc cắn”… Mỗi cái tên đều rất gợi, khá dài và mang sẵn một sự khiêu khích nào đó.
Khi được hỏi về cách đặt tên tác phẩm, Nguyễn Ngọc Thuần đã thú nhận rằng, anh thường nghĩ tên tác phẩm trước, khi nào đặt được cái tên hay, ưng ý anh mới bắt đầu viết. Đây là một cách độc đáo và thú vị vì thông thường người ta sẽ nghĩ ra một vài ý tưởng rồi mới viết, cái tên ban đầu chỉ là một phương án chứ không thể quyết định sự viết. Nếu đặt được một cái tên độc đáo rồi mới viết thì điều ấy quả rất lạ hoặc Nguyễn Ngọc Thuần đã nói đùa!
Cách đặt tên dài là một kiểu khá phổ biến thời gian gần đây, đó là một cách chống lại sự trùng lặp và “gây hấn” với độc giả. Hồ Anh Thái cũng là một trong những người đặt tên khá thú vị. Đây là tên một số tác phẩm của anh: “Cõi người rung chuông tận thế”, “Cả một dây theo nhau đi”, “Mua tranh Van Gogh để đốt”… Những tiêu đề của Hồ Anh Thái thường đi thẳng vào nội dung tác phẩm, ít khi ẩn dụ hay ngầm ẩn.
Nhưng không phải bây giờ các nhà văn mới đặt tên tác phẩm dài và tạo một cú huýnh vào tâm lý của độc giả. Các cây bút tiền chiến xưa cũng từng có cách đặt tên khiến người đọc phải giật mình. Vũ Trọng Phụng có những cái tên rất gây sốc: “Kĩ nghệ lấy Tây”, “Làm đĩ”, “Một con chó hay chim chuột”… Chỉ đọc tên tác phẩm đã biết tác giả chơi một cú “vỗ mặt”. Tôi chắc hẳn những dòng tít không biết nể nang này đã góp phần làm nên sự thành công của Vũ Trọng Phụng.
Nam Cao cũng là một người đặt tên hay, ông có những truyện tên rất gợi như: “Cái mặt không chơi được”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Mò sâm banh”… Nhưng không phải tác phẩm nào Nam Cao cũng thành công trong việc đặt tên. Xem lại những lần ông thay đổi tên gọi tác phẩm, ta thấy rằng nhà văn cũng vật vã với nó lắm.
Một tác phẩm xuất sắc của Nam Cao, lần đầu ông gọi nó là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách, nhà xuất bản tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này in lại, ông đổi thành “Chí Phèo”. Và tôi đồ rằng từ ngày được định danh “Chí Phèo”, sự lan toả và danh tiếng của tác phẩm được biết đến nhiều hơn so với hai cái tên ban đầu.
Và chính Nam Cao cũng từng có những cú bẻ ngược khác rất đáng chú ý, một cuốn tiểu thuyết của ông, ban đầu được đặt tên là “Chết mòn”, sau lại đổi tên là “Sống mòn”. Tất nhiên, chết mòn thì quá dễ, sống mòn mới đáng nể!
Một nhà văn nổi tiếng từ thời tiền chiến như Ngọc Giao có những tác phẩm rất trữ tình và dịu dàng như “Phấn hương”, “Cô gái làng Sơn Hạ”… bỗng “huỵch” một phát đặt tên cho một truyện ngắn cái tên rất khiêu khích: “Đời tư Lã Bố”! Có lẽ chính vì cái tên rất khác người này mà tác phẩm này đã được nhiều nhà xuất bản hồi ấy in vào tuyển tập và tôi chắc hẳn độc giả khi nhắc đến cái tên truyện đều không khỏi tò mò, thế mà Ngọc Giao đã đặt tên kiểu đó từ năm 1938!
Nhà văn Hồ Anh Thái.
Đó là những kiểu tên dài và thách thức, có những nhà văn lại thích đặt những cái tên thật ngắn, thậm chí là một chữ. Những kiểu đặt tên này mang lại một hương vị khác lạ, nó ngầm ẩn và thách thức. Nguyễn Bình Phương có “Ngồi”, Nguyễn Ngọc Tư có “Sông”, Nguyễn Đình Tú có “Nháp”…
Các nhà văn nước ngoài nhiều người cũng có cách đặt tên rất hay. Ta có thể vài cuốn đình đám quen thuộc với độc giả Việt. Đó là “Gone with the wind” của Margaret Mitchell – Cuốn theo chiều gió, “For whom the bell tolls” của Ernnest Hemingway – Chuông nguyện hồn ai, “The call of the wild” của Jack London – Tiếng gọi nơi hoang dã…
Có những kiểu tên được đặt theo những khái niệm. Phong cách này thường được các nhà văn cổ điển ưa thích như các cuốn: “Chiến tranh và hòa bình”, “Tội ác và hình phạt”, “Kiêu hãnh và định kiến”, “Lý trí và tình cảm”… Các nhà văn Việt ít khi đặt tên theo kiểu khái niệm vì cho rằng nó quá Tây và cứng nhắc. Nhưng làm gì có khuôn vàng thước ngọc nào cho việc đặt tên, thế này hoặc thể kia!
Cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi phải 7 lần đổi tên vì những lí do khác nhau và tôi cũng muốn nó thuần Việt theo tư duy người Việt nhưng rốt cục tôi đã “nhượng bộ” người biên tập cuốn sách và đặt tên nó là “Tưởng tượng và dấu vết”. Nhiều người bảo cái tên đó trúng, người khác thì nói nó quá cứng! Cũng không thể nào chiều hết mọi người và thậm chí ngay cả những tác phẩm đã rất nổi tiếng, người viết vẫn luyến tiếc về cái tên của nó.
Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh ban đầu có tên là “Nỗi buồn chiến tranh”, sau đó đến nhà xuất bản, biên tập viên đổi là “Thân phận của tình yêu”, lúc tái bản, Bảo Ninh lấy lại tên cũ nhưng sau rốt ông lại thú nhận, giá kể cuốn sách chỉ mang tên “Nỗi buồn” là đủ, thêm từ “chiến tranh” là không cần thiết!
Một kiểu đặt tên ưa thích của người viết là lấy luôn tên nhân vật chính làm tên tác phẩm. Những tác phẩm kiểu này rất nhiều như: “Anna Karenina”, “Bà Bôvary”, “Lão Hạc”, “Hồ Quý Ly”… Kiểu đặt tên này đơn giản và tiện lợi vì nhân vật được tên đặt là nhân vật trung tâm và có ảnh hưởng lớn dễ tạo hình ảnh. Nhưng bây giờ ở các tác phẩm hiện đại, tác giả có khuynh hướng xây dựng nhiều nhân vật chính mà ít có nhân vật trung tâm hoặc nhân vật không đủ nổi bật nên cũng có ít tác phẩm đặt tên kiểu này.
Một câu hỏi đặt ra là tên tác phẩm có nhất thiết phải song hành với nội dung tác phẩm hay không. Tôi cho rằng điều này không nhất thiết. Tên tác phẩm song hành hay không không quan trọng, miễn là nó hay và có những gợi mở. Điều này sẽ phá vỡ được những định kiến và lối mòn đặt tên.
Nhiều tác giả không muốn hé lộ cho độc giả bất cứ điều gì qua cách đặt tên, họ cho rằng, tác giả không việc gì phải tiết lộ nội dung tác phẩm cho độc giả biết qua tiêu đề tác phẩm. Cứ để cho độc giả tự khám phá sẽ hấp dẫn và thú vị hơn. Một vài cái tên kinh điển thuộc thể loại này như: “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco, “Tu viện thành Parma” của Stendhal…
Việc đặt tên tác phẩm giống như dán một cái nhãn hàng hóa, nó rất quan trọng trong việc thu hút độc giả. Ngày nay, văn học bị cạnh tranh khốc liệt với các loại hình khác và chính các tác giả cũng phải có những tư duy mới để có chỗ đứng và neo vào trí nhớ độc giả. Một cái tên hay và hấp dẫn đóng một vai trò nhất định trong sự thu hút này.
Tôi nhớ có lần đạo diễn Lê Hoàng kể, một bộ phim anh đạo diễn có cái tên dự định là “Trường hợp của Hạnh”. Rõ ràng đó là một cái tên quá cứng và khô. Lê Hoàng bảo, đặt tên đó thì “ma” nó mới đi xem phim! Khi đổi tên phim là “Gái nhảy” thì cái tên mới đã tạo được sự hấp dẫn lớn hơn nhiều và bộ phim đã từng là một hiện tượng đáng chú ý.
Tất nhiên, tên tác phẩm chỉ là một phần cấu thành tác phẩm, tên hay mà tác phẩm dở thì không làm gì nổi nhưng đương nhiên một cái tên ấn tượng sẽ có sức lan tỏa mạnh. Cô đọng hoặc khiêu khích, dài dòng hoặc cụt lủn hoặc bất cứ phong cách đặc biệt nào sẽ cộng hưởng với tác phẩm, khiến nó hấp dẫn và được chú ý hơn.
Và lúc này tôi lại nghĩ đến việc người ta đặt tên cho đứa con ruột của mình. Quá trình ấy thường rất lâu và tốn công sức nhưng khi lớn lên chưa chắc đứa trẻ đã hài lòng với cái tên bố mẹ nó đã tâm đắc ấy. Tên một tác phẩm cũng vậy, người viết có khi đắn đo cân nhắc lắm nhưng rốt cuộc khi ra công chúng chưa chắc đã được sự đồng tình, thích thú.
Đặt tên khó lắm, vì rốt cuộc khi đặt tên ta nghĩ đến điều gì? Nghĩ đến tác phẩm hay độc giả? Đừng tưởng đây là một câu hỏi dễ trả lời!
Uông Triều
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao
Các nhan đề của tác phẩm Chí Phèo và ý nghĩa nhan đề ấy
Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
1. Khái quát chung
Nam Cao là nhà văn chuyên viết về đề tài người trí thức nghèo và người nông dân nghèo.
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn; có phong cách độc đáo, đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần con người.
Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, khẳng định được tài năng của tác giả, là một truyện ngắn có giá trị hiện thực sâu sắc, mới mẻ, chứng tỏ trình độ nghệ thuật bậc thầy của một nhà văn lớn.
c. Nội dung của truyện ngắn
Phơi bày trần trụi cuộc sống của Chí Phèo và một số bộ phận người dân nghèo trước cách mạng.
Khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.
Lên án đanh thép xã hội tàn bạo, tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.
d. Nghệ thuật của câu chuyện
Xây dựng thành công những nhân vật điển hình bất hủ, nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán, chặt chẽ; ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc.
Nghệ thuật xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật độc đáo, đưa nhân vật qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau từ đó bộc lộ được rõ hơn bản chất, tính cách của nhân vật.
2. Tác phẩm “Chí Phèo” có những nhan đề
– Lúc đầu có tên là “Cái lò gạch cũ”: nhấn mạnh sự xuất hiện của Chí Phèo trong cuộc đời, cách gọi này dựa vào hình ảnh cái lò gạch bỏ không ở phần đầu và được lặp lại ở câu kết của tác phẩm, điều đó có ý nghĩa nhấn mạnh tính chất quy luật của hiện tượng Chí Phèo, tạo ra ám ảnh trong tâm trí người đọc. Tuy nhiên nhan đề này đã thể hiện cái nhìn bi quan của tác giả về số phận của người nông dân.
– Sau đó Nhà xuất bản Đời Mới đổi tên là “Đôi lứa xứng đôi”: nhan đề này dựa vào mối tình Chí Phèo – thị Nở, gợi sự tò mò của độc giả. Tuy nhiên, nhan đề này cũng chưa khái quát được ý nghĩa của tác phẩm.
3. Ý nghĩa của nhan đề “Chí Phèo”
– Nhan đề “Chí Phèo” cũng là tên nhân vật chính của câu chuyện. Tác giả sử dụng nhan đề này để làm rõ số phận, cuộc đời, bất hạnh, cô đơn, cô độc của nhân vật chính được nhắc đến. Đồng thời, nhan đề này cũng gây ám ảnh, ấn tượng mạnh đối với người đã, đang và sẽ đọc câu chuyện.
– Nhan đề “Chí Phèo” thâu tóm được nội dung của tác phẩm. Chí Phèo là nạn nhân, là sản phẩm của xã hội phong kiến nửa thực dân. Chí là người nông dân lương thiện nhưng lại bị đẩy vào “bước đường cùng” trở thành kẻ lưu manh, côn đồ, mất hết cả nhân hình nhân tính. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nam Cao phát hiện trong sâu thẳm con người ấy là bản tính lương thiện. Chỉ cần một chút tình thương nhen nhóm sẽ bùng lên. Cuối cùng nhờ tình yêu của Thị Nở, Chí được thức tỉnh. Anh đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện rồi giết chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
– Nhan đề đã góp phần bộc lộ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Cập nhật thông tin chi tiết về Ông Già Và Biển Cả – Tác Phẩm Tiêu Biểu Của Nguyên Lý Tảng Băng Trôi trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!