Bạn đang xem bài viết Phuong Pháp Dat Tên Theo Ngu Hành được cập nhật mới nhất trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phương pháp đặt tên theo ngũ hành
Phương pháp đặt tên theo ngũ hành
Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói
Ngày nay trong các phương pháp đặt tên, thịnh hành nhất vẫn là đặt tên theo ngũ hành. Vậy thế nào là ngũ hành? Người ta tại sao lại phải lấy ngũ hành làm căn cứ để đặt tên?
1. Lý luận ngũ hành
Trong cuốn “Khổng Tử gia ngữ – Ngũ đế” có viết: “Trời có ngũ hành, Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ. Chia thời hóa dục, để thành vạn vật”. Ngũ hành là từ để chỉ năm loại nguyên tố vật chất, tức Thủy (nước), Hỏa (lửa), Mộc (cây), Kim (kim loại), Thổ (đất). Các nhà âm dương theo chủ nghĩa duy vật chất phác (giản đơn) cổ đại Trung Quốc cho rằng, năm loại vật chất này là khởi nguồn và căn cứ để tạo nên vạn vật.
Thời kỳ Chiến Quốc, học thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc (còn gọi là tương sinh tương thắng, ngũ hành sinh thũng) rất thịnh hành. Chủ nghĩa duy vật đơn giản cho rằng, một vật có tác dụng thúc đẩy một vật khác hoặc thúc đẩy lẫn nhau gọi là “tương sinh”, còn một vật có tác dụng ức chế một vật khác hoặc bài xích lẫn nhau gọi là “tương khắc” (cũng gọi là tương thắng).
Ngũ hành tương sinh có: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Ngũ hành tương khắc có: Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.
Cuốn “Thuyết văn – Bộ Ngũ” của Đoàn Ngọc Tài có phê chú: “Thủy Hỏa Kim Mộc Thổ, tương sinh tương khắc, âm dương giao ngọ dã”. Lý luận ngũ hành tương sinh tương khắc bao hàm các nhân tố của chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng, có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển của thiên văn, lịch sử, y học Trung Quốc. Đến nay, y học Trung Quốc vẫn lấy học thuyết ngũ hành để nói về thuộc tính của các tạng phủ và quan hệ tương hỗ của chúng. Ví dụ, Trung y cho rằng gan thuộc Mộc, tim thuộc Hỏa, tỳ thuộc Thổ, phổi thuộc Kim, thận thuộc Thủy…Ngoài ra, Trung y vẫn lấy lý luận ngũ hành tương sinh tương khắc trong lâm sàng để giải thích mối quan hệ hỗ trợ sinh trưởng và khắc chế nhau giữa các nội tạng. Ví dụ như gan có thể khắc chế tỳ, gọi là Mộc khắc Thổ; Tỳ có thể dưỡng phổi vì Thổ sinh Kim…Về phương diện điều trị, như bệnh gan phạm tỳ, thì áp dụng phương pháp điều trị ức chế gan, hỗ trợ tỳ, gọi là ức Mộc phù Thổ.
2. Người ta tại sao phải lấy lý luận ngũ hành để đặt tên?
Tư tưởng của con người là sản phẩm của xã hội. Hình thái ý thức của xã hội không lúc nào ngừng khắc dấu ấn vào trong não người. Mà tư tưởng con người có quan hệ mật thiết với nhận thức về tự nhiên, xã hội. Sự thịnh hành của học thuyết âm dương ngũ hành khiến cho người ta ràng buộc vinh nhục, phúc họa trong cuộc đời vào ngũ hành sinh khắc. Cho nên, khi đặt tên, đều hết sức mong cầu được âm dương điều hòa, cương nhu tương tế. Họ cho rằng như thế trong cuộc sống có thể gặp hung hóa cát, thuận buồm xuôi gió. Đây có lẽ là nguyên do mà mấy ngàn năm nay, mọi người vẫn luôn lấy lý luận ngũ hành làm căn cứ để đặt tên.
3. Mọi người làm thế nào để đặt tên theo lý luận ngũ hành?
Đặt tên theo lý luận ngũ hành có lẽ bắt đầu từ thời Tần Hán. Khi đó, người ta chủ yếu đem phép đặt tên theo can chi từ thời Thương Ân lồng ghép với quan điểm ngũ hành để đặt tên. Ở thời đại Chu Tần, người ta ngoài cái “Tên” còn đặt thêm “Tự”. Do đó, chủ yếu phối hợp thiên can với ngũ hành, đặt ra “Tên” và “Tự”. Như công tử nước Sở tên là Nhâm Phu, tự là Tử Thiên Tân, tức là lấy Thủy phối hợp với Kim, tức là lấy Thủy sinh Kim, cương nhu tương trợ cho nhau.
Đến đời Tống, phép đặt tên theo ngũ hành càng trở nên thịnh hành. Tuy nhiên, thời đó có khiếm khuyết là không coi trọng bát tự, chỉ lấy ý nghĩa của ngũ hành tương sinh để đặt tên.
4. Đời Tống ứng dụng ngũ hành tương sinh vào phép đặt tên như sau:
– Mộc sinh Thủy: Tên cha thuộc Mộc thì tên con phải thuộc Hỏa.
– Hỏa sinh Thổ: Tên cha thuộc Hỏa thì tên con phải thuộc Thổ.
– Thổ sinh Kim: Tên cha thuộc Thổ thì tên con phải thuộc Kim.
– Kim sinh Thủy: Tên cha thuộc Kim thì tên con phải thuộc Thủy.
– Thủy sinh Mộc: Tên cha thuộc Thủy thì tên con phải thuộc Mộc.
Đến nay, trải qua ngàn năm ứng dụng, phương pháp đặt tên theo ngũ hành đã được hoàn thiện rất nhiều, phối hợp chặt chẽ với 81 linh số và giờ ngày tháng năm sinh…để đạt hiệu quả đặt tên ở mức cao nhất.
Theo dattenhay.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (XemTuong.net)
Phương Pháp Đặt Tên Cho Con Theo Ngũ Hành
Ngày nay trong các phương pháp đặt tên, thịnh hành nhất vẫn là đặt tên theo ngũ hành. Vậy thế nào là ngũ hành? Người ta tại sao lại phải lấy ngũ hành làm căn cứ để đặt tên?
1. Lý luận ngũ hành
Trong cuốn “Khổng Tử gia ngữ – Ngũ đế” có viết: “Trời có ngũ hành, Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ. Chia thời hóa dục, để thành vạn vật”. Ngũ hành là từ để chỉ năm loại nguyên tố vật chất, tức Thủy (nước), Hỏa (lửa), Mộc (cây), Kim (kim loại), Thổ (đất). Các nhà âm dương theo chủ nghĩa duy vật chất phác (giản đơn) cổ đại Trung Quốc cho rằng, năm loại vật chất này là khởi nguồn và căn cứ để tạo nên vạn vật.
Thời kỳ Chiến Quốc, học thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc (còn gọi là tương sinh tương thắng, ngũ hành sinh thũng) rất thịnh hành. Chủ nghĩa duy vật đơn giản cho rằng, một vật có tác dụng thúc đẩy một vật khác hoặc thúc đẩy lẫn nhau gọi là “tương sinh”, còn một vật có tác dụng ức chế một vật khác hoặc bài xích lẫn nhau gọi là “tương khắc” (cũng gọi là tương thắng).
Ngũ hành tương sinh có: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Ngũ hành tương khắc có: Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.
2. Người ta tại sao phải lấy lý luận ngũ hành để đặt tên?
Tư tưởng của con người là sản phẩm của xã hội. Hình thái ý thức của xã hội không lúc nào ngừng khắc dấu ấn vào trong não người. Mà tư tưởng con người có quan hệ mật thiết với nhận thức về tự nhiên, xã hội. Sự thịnh hành của học thuyết âm dương ngũ hành khiến cho người ta ràng buộc vinh nhục, phúc họa trong cuộc đời vào ngũ hành sinh khắc. Cho nên, khi đặt tên, đều hết sức mong cầu được âm dương điều hòa, cương nhu tương tế. Họ cho rằng như thế trong cuộc sống có thể gặp hung hóa cát, thuận buồm xuôi gió. Đây có lẽ là nguyên do mà mấy ngàn năm nay, mọi người vẫn luôn lấy lý luận ngũ hành làm căn cứ để đặt tên.
3. Mọi người làm thế nào để đặt tên theo lý luận ngũ hành?
Đặt tên theo lý luận ngũ hành có lẽ bắt đầu từ thời Tần Hán. Khi đó, người ta chủ yếu đem phép đặt tên theo can chi từ thời Thương Ân lồng ghép với quan điểm ngũ hành để đặt tên. Ở thời đại Chu Tần, người ta ngoài cái “Tên” còn đặt thêm “Tự”. Do đó, chủ yếu phối hợp thiên can với ngũ hành, đặt ra “Tên” và “Tự”. Như công tử nước Sở tên là Nhâm Phu, tự là Tử Thiên Tân, tức là lấy Thủy phối hợp với Kim, tức là lấy Thủy sinh Kim, cương nhu tương trợ cho nhau.
Đến đời Tống, phép đặt tên theo ngũ hành càng trở nên thịnh hành. Tuy nhiên, thời đó có khiếm khuyết là không coi trọng bát tự, chỉ lấy ý nghĩa của ngũ hành tương sinh để đặt tên.
4. Đời Tống ứng dụng ngũ hành tương sinh vào phép đặt tên như sau:
– Mộc sinh Hỏa: Tên cha thuộc Mộc thì tên con phải thuộc Hỏa.
– Hỏa sinh Thổ: Tên cha thuộc Hỏa thì tên con phải thuộc Thổ.
– Thổ sinh Kim: Tên cha thuộc Thổ thì tên con phải thuộc Kim.
– Kim sinh Thủy: Tên cha thuộc Kim thì tên con phải thuộc Thủy.
– Thủy sinh Mộc: Tên cha thuộc Thủy thì tên con phải thuộc Mộc.
Đến nay, trải qua ngàn năm ứng dụng, phương pháp đặt tên theo ngũ hành đã được hoàn thiện rất nhiều, phối hợp chặt chẽ với 81 linh số và giờ ngày tháng năm sinh…để đạt hiệu quả đặt tên ở mức cao nhất.
Cùng Danh Mục
Đặt Tên Cho Con Có Yếu Tố Nước Ngoài Theo Pháp Luật Hiện Hành
Xin chào luật sư tư vấn. Tôi lấy chồng người Nhật. Bây giờ muốn khai sinh cho con mang 2 quốc tịch Việt Nam và Nhật. Vậy khi tôi tiến hành khai sinh ở Việt Nam có bắt buộc tên con tôi phải bằng tiếng Việt không ạ. Bên Nhật có cho phép được giữ 2 quốc tịch ạ. Mong được tư vấn sớm.
Đặt tên cho con có yếu tố nước ngoài theo pháp luật hiện hành
Xin chào bạn, Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong, với câu hỏi của bạn công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau :
– Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của luật hộ tịch;
Căn cứ Điều 4 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định việc Xác định nội dung đăng ký khai sinh, khai tử
“Điều 4. Xác định nội dung đăng ký khai sinh, khai tử
1. Nội dung khai sinh được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 của Luật Hộ tịch và quy định sau đây:
a) Họ, chữ đệm, tên và dân tộc của trẻ em được xác định theo thỏa thuận của cha, mẹ theo quy định của pháp luật dân sự và được thể hiện trong Tờ khai đăng ký khai sinh; trường hợp cha, mẹ không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được, thì xác định theo tập quán.”
Do đó, việc lựa chọn họ, tên cho con cũng như việc lựa chọn quốc tịch cho con hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của 2 vợ chồng bạn, theo quy định của luật dân sự.
Căn cứ Điều 26 Bộ luật dân sự 2015 quy định Quyền có họ, tên
1. Cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.
2. Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của người đó.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người có yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em, nếu trẻ em đang được người đó tạm thời nuôi dưỡng.
Cha đẻ, mẹ đẻ được quy định trong Bộ luật này là cha, mẹ được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
3. Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.
Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.
4. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình.
5. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.”
Như vậy, theo như quy định của Bộ luật dân sự 2015 bạn phải đặt tên con mình bằng tiếng Việt.
Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Việt Phong về vấn đề Đặt tên cho con có yếu tố nước ngoài theo pháp luật hiện hành. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Ý Nghĩa Kinh Pháp Hoa Đối Với Người Tu Hành
Không phải ngẫu nhiên Kinh Pháp Hoa được xếp vào hàng “Vua trong các Kinh”, bởi Kinh thuộc giáo nghĩa tối thượng thừa mà Đức Phật nói ra để đưa hàng đệ tử đến Nhất thừa đạo, chứng quả vị Phật thừa.
>> Sách Phật giáo
Đức Phật dạy: “Nhất Phật thừa là giáo lý cao siêu, chỉ dành cho hàng căn cơ thuần thục”. Cho nên, ai viết chép, thọ trì, giảng nói được Kinh này phải biết người ấy có công đức vô lượng. Nếu không nhờ có lòng tin lớn, gieo trồng căn lành từ vô lượng kiếp thì khó mà thành tựu được. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có đoạn nói: Có vị thầy Pháp Đạt một hôm đến tham bái lục Tổ Huệ Năng, vị đó đỉnh lễ Tổ ba lạy mà đầu không sát đất, Tổ nói rằng:
“Lạy là để phá trừ kiêu mạn, tỏ lòng cung kính, lạy mà đầu không chấm đất chi bằng đừng lạy”. Trong tâm ngươi hẳn có điều gì chất chứa, hãy nói ra xem? Pháp Đạt thưa: Tôi niệm Kinh Pháp Hoa đã tới ba ngàn bộ. Tổ nói: “Nếu nhà ngươi niệm đến muôn bộ, hiểu được ý Kinh, nhưng chẳng cho đó là hơn người, thì cùng đi một đường với Ta. Nay nhà ngươi ỷ vào việc tụng Kinh, nên chẳng biết lỗi”.
Rồi Tổ nói kệ:
“Lễ vốn diệt kiêu mạn Sao đầu chẳng sát đất Chấp ngã, tội liền sinh Quên công, phúc cao ngất”.
Pháp Đạt nghe kệ xong, hối lỗi mà tạ rằng: “Từ nay về sau, xin khiêm cung với tất cả”.
Bìa Kinh Pháp Hoa.
Kinh Pháp Hoa cũng dạy một hạnh khiêm cung, nhẫn nhục qua hình ảnh Bồ Tát Tường Bất Khinh, gặp ai cũng cung kính chắp tay nói: “Tôi không dám khinh Ngài, vì trước sau Ngài cũng sẽ thành Phật”. Có người nghe sinh hoan hỷ, có người mắng nhiếc, nhưng Ngài vẫn giữ một tâm niệm khiêm nhường như thế. Vì ngài biết rõ, mọi người ai cũng có Phật tính và khả năng tu hành thành Phật. Tất cả chúng sinh, hoặc trong hiện tại hay vị lai, nếu đã từng một lần được nghe Kinh Pháp Hoa nhất định sẽ thành Phật.
Hình ảnh Bồ Tát Thường Bất Khinh giúp người tu hành dẹp bỏ được tâm ngã mạn trên đường tu. Nên Phật dạy, người trì Kinh Pháp Hoa, ví như người đào giếng trên cao nguyên, là việc làm vô cùng khó khăn, cao nguyên ví như đồng hoang sinh tử. Nước trên đó chỉ cho nguồn tâm thanh tịnh sẵn có nơi mỗi chúng sinh. Nhưng vì vô minh che lấp nên nguồn tâm ấy không hiển lộ. Như người có trí ra sức đào mãi, nhất định cũng đến phần đất ướt, cứ như vậy mãi cũng phải đến mạch nước ngầm, tức là thấy Đạo, đào tiếp cho đến khi nước phun lên là thể nhập Phật tính, là thành tựu Phật quả.
Phật dạy, người trì Kinh Pháp Hoa, ví như người đào giếng trên cao nguyên, là việc làm vô cùng khó khăn, cao nguyên ví như đồng hoang sinh tử.
Song, việc đào giếng có thể một năm, hai năm hay vài mươi năm rồi cũng hoàn thành, nhưng việc tu tập và hành trì theo Kinh Pháp Hoa để ngộ nhập Phật Tri Kiến “Nhất Thiết chủng trí” là sự nghiệp cửa cả một đời, nhiều đời hay nhiều A tăng kỳ hiếp cũng chưa chắc đã thành tựu, nếu ta cũng không dõng mãnh, tinh cần.
Việc hành trì theo Kinh Pháp Hoa là rất khó, bởi nghĩa lý vô cùng thâm sâu. Nên người muốn thọ trì Pháp Hoa được viên mãn, trước hết phải hội đủ ba điều kiện căn bản như phẩm Pháp Sư Công Đức nói là: “Ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai”.
Hành giả muốn thụ trì Kinh Pháp Hoa phải sống trong nhà Như Lai. Tức là phải có tấm lòng từ bi với chúng sinh như mẹ thương con. Nếu thiếu tâm từ, chúng ta không thể hành trì được Pháp Hoa, Như tiền kiếp Ngài Di Lặc Bồ Tát là Cầu Danh, nhờ phát tâm Tam Muội, mang tên Từ Thị, sau được Phật thọ ký thành Phật. Do đó, người tu phải lấy từ bi làm nhà, cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sinh khiến họ đi đến giải thoát giác ngộ. Cũng vậy, Phật xem tất cả chúng sinh như con ruột, luôn trải tâm từ và mang lại an lạc cho chúng sinh. Chúng ta là những người con Phật, nên phải thực hành theo những gì Phật đã làm, đi trên con đường Phật đã đi mới mong thành tựu được đạo quả.
Hành giả muốn thụ trì Kinh Pháp Hoa phải sống trong nhà Như Lai. Tức là phải có tấm lòng từ bi với chúng sinh như mẹ thương con. Nếu thiếu tâm từ, chúng ta không thể hành trì được Pháp Hoa, Như tiền kiếp Ngài Di Lặc Bồ Tát là Cầu Danh, nhờ phát tâm Tam Muội, mang tên Từ Thị, sau được Phật thọ ký thành Phật.
Muốn thụ trì Pháp Hoa hành giả phải mặc áo Như Lai, nghĩa là trang nghiêm thân tâm bằng hạnh nhu hòa, nhẫn nhục. Chỉ có tâm từ thôi chưa đủ, mà phải dùng những ngôn từ yêu thương để hóa độ chúng sinh. Chúng sinh đối với Phật Pháp như đứa trẻ vậy. Nên biết, thuốc Pháp Hoa là liều thuốc Tối thượng thừa, nếu không bọc một lớp đường nhu hòa, từ ái, nhẫn nhục thì chúng sinh không thể uống được. Nhưng nhẫn nhục mà Đức Phật dạy ở đây là nhẫn nhục trong trí tuệ sáng suốt, nhẫn để giáo hóa. Như khi Đức Phật hỏi lại kẻ đã mắng nhiếc mình: “Nếu ngươi mang lễ vật đến biếu người, người không nhận. Lễ ấy thuộc về ngươi đúng không?” Đức nhẫn này rất cần thiết để vượt khỏi khó khăn trên con đường thuyết pháp độ sinh.
Người nói Pháp Hoa là phải ngồi tòa Như Lai. Ngồi là “An trú”, tòa Như Lai nghĩa là vị Đại Bồ Tát quán: “Nhất thiết pháp không như thật tướng” chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng nói, chẳng chuyển như hư không “Không” đây có nghĩa là vô tự tính của các Pháp. Vì các pháp là vô tự tính, nên bất khả đắc. Đức Phật an trú trong Chân Không ấy nên gọi là ngồi tòa Như Lai. Kinh Kim Cương nói:
“Như thị diệt độ vô lượng, vô số vô biên chúng sinh thực vô chúng sinh đắc diệt độ giả”.
Người nói Pháp Hoa là phải ngồi tòa Như Lai. Ngồi là “An trú”, tòa Như Lai nghĩa là vị Đại Bồ Tát quán: “Nhất thiết pháp không như thật tướng” chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng nói, chẳng chuyển như hư không “Không” đây có nghĩa là vô tự tính của các Pháp.
Trọn đời Đức Phật độ sinh mà Ngài nói Ta không thấy có chúng sinh nào được độ, nên sự thuyết pháp độ sinh mới viên mãn. Đức Phật ở trong vô tự tính, nên không còn thấy tướng chúng sinh. Với tất cả chúng sinh đều bình đẳng nói pháp, vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều. Hành giả trì Kinh Pháp Hoa tại gia hay xuất gia nên sinh lòng từ lớn, còn hàng Bồ Tát sinh lòng bi lớn. Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Như Lai, Vì Kinh chỉ bày Tri Kiến Phật, nên chỉ cho người rất khó, vì nó không có tướng mạo, vượt ngoài ngôn ngữ. Song, nó hằng hiện hữu nơi chúng ta.
Ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai là ba đức tính, ba điều kiện căn bản để việc đọc tụng, giảng nói Kinh Pháp Hoa được rốt ráo viên mãn. Người hộ trì, giảng nói Kinh Pháp Hoa, trước phải giữ gìn giới luật, tức là an trú bốn pháp: 1. Hành xứ: An trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu chẳng Kinh sợ; 2. Thân cận xứ: Không gần gũi vua quan và ngoại đạo… những đối tượng này nếu phải thuyết pháp thì không nên thân cận. Quán các pháp không như thật tướng, chẳng điên đảo, chẳng động như hư không; 3. An lạc hạnh: Chẳng nói lỗi của người khác và Kinh, chẳng khinh mạn pháp sư khác, đối với hàng Thanh Văn không khen không chê. Đối với tất cả chúng sinh phải khởi tâm bình đẳng nói pháp. Đối với các Như Lai, Bồ Tát phải thường kính lễ; 4. Khởi đại bi tâm: Tâm sinh lòng từ đối với người tại gia, xuất gia. Người thành tựu bốn pháp này thì lúc thuyết pháp không có lầm lỗi.
Trong phẩm Pháp Sư Công Đức có ghi: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào thụ trì Kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, tụng, giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này, trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh”.
Kinh Pháp Hoa xem trọng Phật tính hay Tri Kiến Phật bình đẳng nơi mỗi chúng sinh qua câu nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, nếu ai biết quay lại sống với Tri Kiến Phật nơi mình thì sẽ được diệu dụng không thể nghĩ bàn.
Cũng trong phẩm Phẩm Pháp Sư Công Đức, Đức Phật thọ ký rằng: “Người nào đọc tụng, thụ trì Kinh Pháp Hoa là người ấy đã tự trang nghiêm mình bằng sự trang nghiêm của Đức Phật. Do đó, được Đức Như Lai mang trên vai Ngài”.
Kinh Pháp Hoa xem trọng Phật tính hay Tri Kiến Phật bình đẳng nơi mỗi chúng sinh qua câu nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, nếu ai biết quay lại sống với Tri Kiến Phật nơi mình thì sẽ được diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nên Phật dạy, chúng ta thực hành Bồ Tát đạo với tâm bình đẳng giáo hóa, không chối bỏ người nào kẻ oán cũng như người thân. Cho nên, học hỏi và tu tập Diệu Pháp là con đường quay trở về với chính mình và thực tại, nhận rõ ở đó không có mặt của ngã tướng, để từ bỏ tham ái và chấp thủ, trở về sống với Tri Kiến Phật sẵn có, với Pháp Thân không hình, không tướng, không sinh không diệt, nên công đức là không thể nghĩ bàn.
Minh Chính (TH)
Cập nhật thông tin chi tiết về Phuong Pháp Dat Tên Theo Ngu Hành trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!