Ý Nghĩa Tên Gọi Của Dòng Sông Hương

Sông Hương với huyền thoại về tên gọiBài kí khép lại bằng một huyền thoại đẹp về tên gọi của dòng sông. Vì yêu quý consông xinh đẹp, nhân dân hai bở sông đã nấu nước hoa của trăm loài đổ xuống sôngcho làn nước thơm tho mãi mãi. Sông Hương chính là sông thơm. Con sông manghương thơm quyến rũ của ngàn hoa, hương thơm nồng nàn của tình yêu hươngthơm thấm vào từng thớ dất, đượm trong mỗi giọi nước. Sông Hương vốn thơmộng, thêm huyền thạoi này, càng mộng mở, hư ảo biết bao.Sông Hương với huyền thoại về tên gọi và ý nghĩa nhan đề tác phẩmSông Hương với huyền thoại về tên gọi và ý nghĩa nhan đề tác phẩmÝ nghĩa nhan đề tác phẩmTheo lẽ thường, tiêu đề của một tác phẩm sẽ phản ánh nội dung mà nó thể hiện.Vậy, tại sao tác giả lại đặt tên cho tác phẩm của mình là “Ai đã đặt tên cho dòngsông?” mà không phải là những cái tên khác? Điều này đã được tác giả bật mítrong đoạn cuối cùng của đoạn trích. “Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tócbạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời,với đất, một câu thật bâng khuâng: _ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Kết thúc bút kìbằng một huyền thoại lí giải về tên của dòng sông. Với tiêu đề ấy, nhằm lưu ýngười đọc không chỉ cái tên đẹp đẽ của dòng sông mà còn gợi niềm biết ơn đối vớinhững người đã khai phá vùng đất ấy. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”được nhắc đinhắc lại trong tùy bút 3 lần không kể nhan đề, trong trích đoạn nó được nhắc đến 1lần. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – với người đọc chưa biết gì về sông Hương và

xứ Huế, nó là câu hỏi vang lên như một sự tò mò, khúc mắc về cái tên sông Hương– sông thơm và khích lệ sự tìm tòi, khám phá. Nhưng với những người biết và yêuxứ Huế, câu hỏi đó bật lên trong thoáng ngỡ ngàng, để rồi từ đó hồi tưởng, suy tư

Xuất Xứ Tên Gọi Sông Hương

* Chuyên mục Cửa sổ Tri thức trên Báo Đà Nẵng cuối tuần số ra ngày 27-12 vừa qua có nói rằng tên gọi sông Hương xứ Huế là xuất phát từ chuyện chúa Nguyễn Hoàng làm theo mách bảo của một bà tiên, thắp hương chèo thuyền trên sông, khi hết cây hương sẽ thấy một vùng đất tươi tốt để chọn làm nơi xây phủ Chúa.

Chúa cho xây chùa Linh Mụ trên gò đất để tạ ân bà tiên, và dòng sông đó được gọi là sông Hương. Tuy nhiên, theo tôi biết thì còn nhiều cách giải thích xuất xứ của sông Hương nữa. (Hoàng Mỹ, Hải Châu, Đà Nẵng).

– Cách giải thích tên gọi sông Hương xuất phát từ việc thắp hương (nhang) trên sông chỉ là một truyền thuyết dân gian. Thực tế còn có nhiều cách giải thích khả tín hơn.

Hương Giang nghĩa là sông thơm, sông có mùi hương. Cụ Vân Bình Tôn Thất Lương (1887 – 1951), tác giả bài Hương Giang hành đã cho biết nguồn gốc của mùi thơm đó khi nói về con sông xinh đẹp này: “Hương Giang phát nguyên từ hai nguồn tả, hữu trạch nguyên ở miền thượng lưu tỉnh Thừa Thiên, quanh co gành bãi ruộng vườn, chảy lần qua kinh thành, đến cửa Thuận An rồi ra Đông Hải. Hai bên bờ tả hữu trạch có giống “Thạch xương bồ” là một vị thuốc trường sanh, có mùi thơm, mọc hai bên bờ khe, nước khe lần hóa ra thơm. Hương giang (sông Thơm) bởi đó mà có danh vậy”.

Trang chúng tôi cũng mô tả về loài cây có mùi thơm này: “Cây cỏ, sống nhiều năm. (…) Thân rễ và lá có mùi thơm đặc biệt. Cây Thạch xương bồ mọc hoang ở rừng núi, trên những tảng đá có nước chảy ở suối”.

Ngoài ra, sông Hương được cho là mang tên vùng đất mà nó chảy qua. Nhà nghiên cứu Phan Thuận An, trong bài viết “Giá trị của sông Hương” đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 11 (54) năm 2006, cho biết: “Xưa nay, người ta thường gọi tên một con sông bằng tên của vùng đất mà nó chảy qua. Vào các thời kỳ lịch sử nói trên, khi vùng đất ấy còn mang tên là huyện Kim Trà thì con sông chúng ta đang nói đến được gọi là sông Kim Trà. Sau đó, khi tên huyện đổi thành Hương Trà thì tên sông cũng đổi theo: sông Hương Trà”.

Để thuyết phục hơn, nhà nghiên cứu Phan Thuận An, trong bài viết nói trên, đã dẫn lời tác giả Nguyễn Hữu Đính trong bài “Sông Hương đã có tên ấy từ bao giờ” đăng trên tạp chí Sông Hương số 1, tháng 6-1983: “Từ sông Hương Trà đến sông Hương chỉ còn một bước, vì trong ngôn ngữ, bất cứ ngôn ngữ nước nào, dân gian thường hay rút gọn. Vả chăng, hai chữ sông Hương đẹp quá, giới văn chương, trí thức cũng không muốn gì hơn”.

Và để củng cố thêm cho lập luận tên gọi sông Hương chính là do địa danh huyện Hương Trà và sông Hương Trà mà ra, tác giả Phan Thuận An đã trưng ra phần “Đệ nhất kỷ” nói về thời Gia Long trong sách Đại Nam thực lục của triều Nguyễn: Vào ngày Bính Thân tháng 7 năm Tân Dậu (8-1801), “vua đi Quảng Bình… Thuyền ngự khởi hành từ sông Hương tức là sông Hương Trà…”.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, trong bài viết “Sông Hương giữa chúng ta” đăng trong tập sách “700 năm Thuận Hóa – Phú Xuân Thừa Thiên – Huế” đã trích dẫn bài viết của nhà nghiên cứu Phan Thuận An và kết luận: “Như vậy, căn cứ vào các tư liệu thành văn dẫn trên, chúng ta có thể khẳng định rằng cái tên sông Hương là do địa danh Hương Trà được rút gọn từ khoảng cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. (…) Khi đúc bộ Cửu đỉnh bằng đồng vào năm 1836, vua Minh Mạng cho khắc nổi hình ảnh sông Hương lên Nhân đỉnh và ngay tại đó khắc liền hai chữ Hán “Hương Giang” như ta còn thấy trước sân Thế Miếu trong Hoàng thành ngày nay”.

ĐNCT

Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông

Và nếu chưa từng có cuốn sách nào của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, thì Ai đã đặt tên cho dòng sông (NXB Hội Nhà Văn, 2010) là một lựa chọn đúng, đủ để hiểu sâu về một cây bút “rất nhiều ánh lửa”.

Từ lâu, cái tên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở nên quen thuộc với những người ưa thích thể loại bút ký văn học. Tập bút ký Rất nhiều ánh lửa của ông từng được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980-1981. Các tập Ngọn núi ảo ảnh, Rượu hồng đào chưa uống đã say, Miền cỏ thơm từng được tặng thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam (1999, 2002, 2007).

Ai đã đặt tên cho dòng sông là tên một bút ký được tác giả viết đúng vào lúc Huế đang tiết cốc vũ, tháng 1-1981, khi con sông Hương nước đang dềnh lên.

Sinh ra ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong (Quảng Trị), nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sớm chọn Huế để gắn bó. Và chọn sông Hương để viết bút ký thuộc loại hay nhất của đời văn, được trích chọn vào sách giáo khoa, là còn bởi “hình như chỉ sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất”, và còn “vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi”.

Nhưng cuốn sách này còn giới thiệu thêm 25 bài viết nữa: Ngọn núi ảo ảnh, Hành lang của người và gió, Lý chuồn chuồn, Rất nhiều ánh lửa, Căn nhà của những gã lang thang, Tuyệt tình cốc, Miền cỏ thơm, Thời ấu thơ xanh biếc… Ðây cũng là những bút ký văn học đã làm nên cái tên Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Ðặc biệt, cuốn sách dành tới gần 100 trang để tuyển in lại nhiều bài viết về Trịnh Công Sơn và âm nhạc Trịnh: Ðịa đàng còn in dấu chân, Tuổi đá buồn, Ðể gió cuốn đi, Cây đàn lya và Hoàng tử bé…

Sinh ngày 9-9-1937, nhiều năm nay Hoàng Phủ Ngọc Tường mắc bệnh nặng, mỗi khi muốn viết điều gì ông đều phải đọc cho người thân chép hộ, nên lâu rồi chưa thấy ông xuất bản những tác phẩm mới. Vì thế, cuốn sách này giống như một “tuyển tập mini” về một nhà văn gắn tên mình với thể loại bút ký trong nền văn học đương đại Việt Nam.

Về Tên Sông Linh Giang

(QBĐT) – Các bài viết của tác giả  Tôn Thất Thọ đăng ở Tạp chí Xưa và Nay số 341 tháng 10 năm 2009  và của tác giả Nguyễn Quốc Toàn đăng ở  Tạp chí Nhật Lệ đều để cùng trả lời một câu hỏi chung: Linh Giang là sông nào? Sau khi trưng các chứng cứ từ các thư tịch cổ rất công phu, chính xác và thực hiện các thao tác khoa học nghiêm túc, cần thiết, hai tác giả đi đến các kết luận của riêng mình, đại thể như sau:

Tôn Thất Thọ: Linh Giang là tên gọi chỉ con sông Hương ở Thừa Thiên-Huế chứ không phải là sông Gianh ở Quảng Bình như các sử thần nhà Nguyễn đã chép.

Nguyễn Quốc Toàn: Địa danh trùng tên là chuyện thường gặp. Sông Gianh (Quảng Bình) cũng có tên là Linh Giang, thậm chí có lúc được gọi là Đại Linh Giang.

Sông Hương ngày vua Khải Định băng hà: 6-11-1925. (Chụp lại từ ảnh tư liệu).

Dựa vào các cứ liệu của hai bài viết nói trên và thực tế, thì Sông Gianh (ở tỉnh Quảng Bình) và sông Hương (ở tỉnh Thừa Thiên-Huế) có các đặc điểm giống và khác nhau sau đây:

-  Giống nhau:

+ Là hai hiện tượng địa lý, dạng vật chất, hội đủ các tiêu chí để cùng nằm trong một khái niệm địa lý / mục từ từ điển: SÔNG (đọc theo âm Hán-Việt là GIANG)  + Cùng đã từng và đang nuôi sống / đe dọa hai cộng đồng người chính: Chăm và Việt trong quá trình tồn tại của mình (lịch đại). + Có thời điểm được các cổ thư chép cùng tên là LINH GIANG.

– Khác nhau:

+ Có quy mô khác nhau (tác giả Nguyễn Quốc Toàn đã chứng minh trong bài viết của mình về độ dài, lưu vực, lưu tốc nước…) + Tọa lạc ở hai vùng địa lý / hành chính / văn hóa khác nhau: kinh kỳ (sông Hương) / biên viễn (sông Gianh). + Có hai tên gọi đương đại khác biệt nhau: HƯƠNG / GIANH

Từ các đặc điểm trên, tôi xin xin có vài thiển ý như sau:

1. Cả hai dòng sông Hương và sông Gianh được những người san định cổ thư ghi lại đã từng có thời cùng mang tên LINH GIANG, mà tác giả Nguyễn Thế Thọ cho là người xưa ghi chép sai từ sông này (Hương) sang sông kia (Gianh), vì trong diễn trình tồn tại của chúng, chỉ có sông Hương mới từng mang tên Linh Giang mà thôi! Nhưng theo tôi, đó lại là sự ghi chép chân thật, chuẩn xác tại thời điểm lịch sử ấy của tiền nhân.

Tên gọi này chắc chắn không do những người san định cổ thư tự võ đoán đặt ra, mà được kế thừa ít nhất từ hai nguồn thông tin / tư liệu: di cảo của tiền nhân và sự cung cấp (thông tin) của cộng đồng dân cư sinh sống hai bên bờ sông Hương và sông Gianh. Chỉ có điều, khái niệm LINH GIANG được ghi lại ở đây không phải là tên sông / địa danh, mà đó là ý niệm của các cộng đồng dân cư hai khu vực này về các con sông hiền hòa (nuôi dưỡng) / hung hãn (hủy diệt) của mình. Những người san định cổ thư không biết / không có ý định phụ chú điều này khi ghi lại nó, nên lâu dần, ý niệm linh giang được địa danh hóa, do đó, người đời sau đồng nhất / nhầm lẫn ý niệm linh giang thành tên sông / địa danh LINH GIANG, và đương nhiên tranh biện đã xảy ra.

2.Trong suốt quá trình tồn tại, hai dòng sông Hương và sông Gianh đã từng có những tên gọi khác nhau mà các cổ thư đã liệt kê, tuy nhiên, theo tôi, đó chưa phải là những liệt kê đầy đủ (và không bao giờ đủ). Bằng chứng: sông Hương và sông Gianh đã từng gắn bó với cộng đồng người Chăm hùng mạnh.

Những người Chăm có nền văn minh sớm phát triển rực rỡ, có kỹ năng sông nước vượt trội, đã từng sở hữu độc lập hai dòng sông hùng vĩ này trong một thời gian dài, không thể không định danh cho nó để tiện sinh hoạt, thậm chí để tôn thờ. Thế mà, trong các cổ thư do hai tác giả Nguyễn Thế Thọ và Nguyễn Quốc Toàn dẫn ra không thấy có một tên Chăm nào dùng để chỉ hai con sông này; đó chỉ có thể là sự chưa tìm thấy của tiền nhân mà thôi. Với hiện thực lịch sử – văn hoá này, theo tôi, hai dòng sông Gianh và sông Hương trong quá trình được con người khai thác hẳn đã từng được định danh bởi các lớp tên có nguồn gốc sau đây: Chăm – Nôm (Việt cổ) – Hán Việt (còn gọi là tên Chữ), tuy nhiên, đến nay nó đã không được bảo lưu đầy đủ.

3. Như vậy, nếu ta giữ nguyên các tên gọi của hai dòng sông được nhắc nhiều trong bàn luận: LINH GIANG, SÔNG HƯƠNG, SÔNG GIANH, còn những tên gọi khác trong lịch sử đã biết và chưa biết của hai dòng sông này được mã hóa bởi các ký tự chữ cái tiếng Việt (viết hoa) khác nhau tương ứng, chúng ta sẽ có mô hình hai chuỗi tên gọi của các dòng sông này như sau:  * X – Y – LINH GIANG – Z … – SÔNG HƯƠNG.  * M – N – O – LINH GIANG… – SÔNG GIANH.

Trong hai chuỗi tên gọi khác biệt trên, dễ dàng nhận  thấy duy nhất chỉ có một vị trí trùng lặp mà thôi:LINH GIANG. Những tên gọi còn lại hoàn toàn khác biệt nhau, không cần chứng minh quyền sở hữu. Vậy thì, với phẩm chất ngôn ngữ / văn hoá nào mà duy nhất LINH GIANG lại được hai cộng đồng người ở hai vùng địa lý/ hành chính/ văn hóa (kinh kỳ / biên viễn ) cùng sử dụng trùng cho dòng sông trên lãnh thổ của mình?

4. LINH GIANG, về mặt ngôn ngữ là từ ghép Hán – Việt (tên chữ), trong đó có thành tố GIANG (sông) là của chung mọi dòng sông, không thể và không cần phân định. Còn lại thành tố LINH có thể là sở hữu riêng, hoặc đầu tiên với tư cách là tên gọi của một con sông cụ thể nào đó, nếu chứng minh được.

Tra cứu trong nguyên tác các thư tịch cổ do hai tác giả Tôn Thất Thọ và Nguyễn Quốc Toàn cung cấp, thấy các bậc tiền nhân sử dụng chữ LINH (?) bộ “vũ”, có nghĩa  thần linh, linh khí, linh ứng để ghi cho LINH GIANG (..).

Theo đó, nếu cần phải diễn nôm (dịch) thì LINH GIANG nghĩa là DÒNG SÔNG LINH THIÊNG. Hai dòng sông khác biệt nhau (HƯƠNG và GIANH) được hai cộng đồng cư dân ở hai vùng địa lý cách xa nhau cùng tôn phong là LINH THIÊNG thì rõ ràng đó là Ý NIỆM tôn kính / sợ hãi của họ đối với dòng sông hiền hoà / hung dữ xứ mình, chứ không phải là KÝ HIỆU (ngôn ngữ) để dùng làm tên gọi thông thường. Nhưng Ý NIỆM ở hai vùng xa cách về hai con sông khác biệt nhau do đâu mà lại có cùng mẫu số chung LINH GIANG? Đơn giản, do các cộng đồng người này đều cùng là người Việt, và cùng một văn hoá tín ngưỡng. Bằng chứng:

– Người Việt xưa có tục thờ nhiên thần (các vị thần có nguồn gốc tự nhiên). Các hiện tượng tự nhiên  nào cộng đồng không giải thích được, không chế ngự được, hoặc quá hàm ơn…, đều được phong thần và tôn thờ, bởi vậy nên mới có thần núi, thần sông, thần cây đa, ma cây gạo…, những thế lực tự nhiên siêu nhiên vừa gây ra sự sợ hãi, vừa gieo lên niềm hy vọng cho con người vốn yếu ớt về thể chất (so với tự nhiên), thấp kém về hiểu biết quy luật (về tự nhiên) thời bấy giờ.

Thượng nguồn sông Gianh. Ảnh: Trần Hùng

Sông Hương và sông Gianh là những dòng sông hai mặt hùng vỹ nhất ở khu vực, nó nuôi sống cộng đồng, nhưng đồng thời cũng có khả năng huỷ diệt cộng đồng khi trở chứng. Cộng đồng cư dân ở lưu vực hai dòng sông đã kính trọng, sợ hãi hai dòng sông này đến mức thốt lên thành lời: DÒNG SÔNG LINH THIÊNG (LINH GIANG). Quyền kính trọng và sợ hãi trước tự nhiên là quyền chung của CON NGƯỜI chứ không phải là đặc hữu của riêng một nhóm cộng đồng nào, miền địa lý nào…

– Người xưa khi thấy vật gì được khí tinh anh hun đúc lại hơn cả các loài vật cùng loài thì gọi là linh (Từ điển Hán-Việt Thiều Chửu). Chẳng hạn, con người là giống linh hơn muôn loài, do vậy khi chết gọi là linh: linh cữu = thi thể, linh sàng = giường người chết nằm, thiết linh = bài vị thờ người chết… Ở cấp độ thấp hơn, động vật cũng có nhóm linh hơn những động vật còn lại: Tứ linh (kỳ lân, phượng hoàng, rùa, rồng).

Theo đó, sông Hương và sông Gianh rõ ràng là hùng vĩ nhất, được các cộng đồng cư dân ở đây cho là được khí tinh anh hun đúc lại hơn cả các con sông khác trong khu vực mà họ được biết, nên đã tự nguyện tôn vinh là LINH GIANG với mơ ước sẽ được các đấng nhiên thần này nuôi sống và che chở. 

Rõ ràng LINH GIANG là một ý niệm tôn xưng tất yếu của một cộng đồng đối với dòng sông của mình, chứ không phải là một danh xưng (tên gọi) thông thường. Đó là văn hoá tín ngưỡng nhiên thần có mẫu số chung, rất phổ quát, ở đâu để đó, không thể và không cần thiết phải tìm chủ sở hữu duy nhất.

                                                                                    Trần Hùng

Nền Văn Minh Sông Hồng

NỀN VĂN MINH SÔNG HỒNG – CƠ SỞ HÌNH THÀNH, THÀNH TỰU, ĐẶC TRƯNG, CÁC TÊN GỌI VÀ Ý NGHĨA Sau một thời kỳ dài sống định cư và mở rộng lãnh thổ, phát triển nền kinh tế với nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo, vượt qua nông nghiệp dùng cuốc đến nông nghiệp dùng cày (bằng lưỡi cày đồng tiến lên lưỡi cày sắt) có sức kéo là trâu bò cùng với những tiến bộ khác, người Việt cổ đã đưa xã hội vượt qua thời tiền sử, vượt qua hình thái kinh tế – xã hội nguyên thuỷ sang hình thái kinh tế xã hội đầu tiên thuộc phạm trù của thời đại văn minh, của xã hội phân hóa giai cấp và có nhà nước (Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng tiếp đến là nước Âu Lạc của vua Thục). Đồng thời, người Việt cổ đã xây dựng được một nền văn minh đầu tiên, đó là nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc hay còn gọi là nền văn minh sông Hồng, đây là nền văn minh bản địa. Sự ra đời một hình thái nhà nước đầu tiên dù còn sơ khai nhưng đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của lịch sử Việt Nam. Nó xác nhận quá trình dựng nước thời Hùng Vương – với nhà nước Văn Lang và đặt cơ sở cho sự hình thành cộng đồng dân tộc Việt Nam, cộng đồng quốc gia Việt Nam. Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc với những thành tựu dựng nước và bước đầu giữ nước, với nền Văn minh sông Hồng (Văn minh Văn Lang – Âu Lạc hay còn gọi là văn minh Việt cổ) rực rỡ đã khẳng định vị trí của nó trong lịch sử dân tộc, mở đầu sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.- Nền văn minh sông Hồng – cơ sở hình thành: + Nền Văn minh sông Hồng được hình thành từ những nền văn hóa tiền sử xa xôi và được trực tiếp tạo thành trong một quá trình liên tục từ Sơ kỳ thời đại đồng thau đến Sơ kỳ thời đại đồ sắt (tiêu biểu là văn hóa Đông Sơn). Công cụ kim loại sắc bén và thuận lợi hơn nhiều so với công cụ bằng đá đã tạo nên những chuyển biến về chất trong sản xuất và đời sống xã hội.+ Quá trình hình thành nền văn minh sông Hồng đồng thời là quá trình liên kết các bộ lạc và liên minh bộ lạc thành cộng đồng quốc gia, cộng đồng bộ tộc với cơ cấu nhà nước sơ khai của người Việt cổ. Đó cũng chính là quá trình tác động và dung hợp nhiều nền văn hóa của những thành phần cư dân khác nhau, thành một nền văn hóa thống nhất với nhiều loại hình địa phương, gồm nhiều thành phần dân tộc gần gũi nhau về nhân chủng và văn hóa. Cộng đồng người Việt Cổ được hình thành qua nhiều quá trình: Nhóm Môngôlôit hỗn chủng với nhóm Ôxơralôit tạo thành người Lạc Việt, nhóm Lạc Việt hòa nhập với nhóm Tây Âu tạo thành người Âu Lạc. Cộng đồng cư dân đó bước đầu được gắn bó bởi ý thức về một dòng giống chung (là con rồng cháu tiên), bởi sự cố kết trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên (bão lụt, hạn hán) và với xã hội (giặc ngoại xâm).+ Lúc này người Việt Cổ đã từ vùng gò đồi cao tràn xuống vùng đồng bằng và vùng ven biển để sinh sống. Lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả,… đã tạo nên vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ trù phú – một địa bàn thuận lợi cho người Việt cổ sinh sống. – Thành tựu của nền văn minh sông Hồng:Nền văn minh sông Hồng được hình thành cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc và sự phát triển của đời sống vật chất và tinh thần của người Việt cổ. Trên cơ sở một nền kinh tế phát triển mạnh và phạm vi lãnh thổ được mở rộng từ vùng đồi núi, trung du đến vùng đồng bằng rộng lớn của sông Hồng, sông Mã, sông Cả,… đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao rõ rệt; tổ chức xã hội đạt đến một trình độ cao hơn, vượt khỏi thời nguyên thuỷ, bước sang thời đại văn minh đầu tiên của người Việt cổ – nền văn minh sông Hồng. + Về đời sống vật chất:Thóc gạo là nguồn lương thực chính của cư dân Văn Lang – Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, xôi, làm bánh chưng, bánh giầy. Sách Lĩnh nam chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương trồng được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Nhiều chiếc chõ gốm dùng để thổi xôi đã được tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hoá Đông Sơn. Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang – Âu Lạc còn sử dụng các loại hoa màu, rau quả, nhất là các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ. Lúc thiếu thốn, người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng.Thức ăn cũng khá phong phú, gồm các loại cá, tôm, cua, ốc hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà, đậu…). Thức ăn được chế biến theo nhiều cách khác nhau theo sở thích từng vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống…) Nghề chăn nuôi và săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn cho mỗi gia đình. Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm (trâu, bò, lợn, gà, chó…). Trong thức ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang – Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới như: vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt,… Người ta cũng đã biết sử dụng nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ,… Nguồn lương thực và thực phẩm của người Việt cổ rất phong phú, đa dạng và rất giàu chất bột, chất đạm và các chất bổ khác. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ .Tập quán ăn uống: Người Việt cổ bấy giờ có tục uống rượu gạo và ăn trầu. Rượu được nhắc đến nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Đông Sơn có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen. Dấu tích hạt cau, quả cau đã được tìm thấy ở Đông Sơn.Trang phục của cư dân Văn Lang – Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát triển, óc thẩm mỹ và bản sắc văn hoá của người Việt cổ. Do nghề dệt phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông,… nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có loại quấn đơn và loại quần kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui, được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Tượng người đàn ông thổi kèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng mặc váy dài trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu. Vào các ngày lễ hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: có mũ lông chim, váy xòe kết bằng lông chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay, vòng cổ chân bằng đá, đồng). Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Điều đó cũng chứng tỏ đời sống vật chất của cư dân Văn Lang – Âu Lạc được nâng cao rõ rệt. Về đầu tóc, người bấy giờ có bốn kiểu: kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và tóc quấn ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự. Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng, để xoã khá phổ biến ở nam giới thời bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau. Có thể nói, kiểu tóc cắt ngắn buông xoã sau lưng và búi tóc cao sau đầu là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người Đông Sơn. Người Việt cổ bấy giờ còn có tục xăm mình.Nhà ở có nhiều kiểu như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Trên trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rủ xuống như mái tranh đến gần sàn, có cầu thang lên xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó thường gọi là kẻ, chiềng – tức là nơi chốn, chạ tức là tục kết đôi làng quê. Các vật dụng trong sinh hoạt gia đình rất phong phú như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài ra, có những đồ dùng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu,… Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè. Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu, bò, ngựa. + Đời sống tinh thần Cư dân Văn Lang – Âu Lạc đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khá cao. Những sản phẩm đẹp, tiêu biểu như trống đồng, thạp đồng, trang sức bằng đồng nói lên kỹ thuật luyện đồng đã đạt đến đỉnh cao (từ cách xây dựng các lò đúc, khuôn đúc, nguyên liệu pha chế hợp kim, làm hoa văn,…). Người xưa tuỳ theo chức năng sử dụng của từng loại công cụ mà tạo nên một hợp kim hay tỷ lệ giữa các hợp kim cho phù hợp với cách chế tạo đồ đồng của người Đông Sơn, thể hiện khá rõ nét trình độ tư duy khá cao của người Việt cổ. Điều này còn được thể hiện ở trình độ luyện sắt bấy giờ với phương pháp hoàn nguyên trực tiếp thành loại sắt xốp. Trong quá trình quy tụ các bộ lạc sống trên cùng một phạm vi đất đai đã hình thành lãnh thổ chung, đã nổi lên xu hướng thống nhất, đoàn kết, hoà hợp trước yêu cầu trị thủy, làm thuỷ lợi để phát triển nông nghiệp và chống ngoại xâm.Từ ý thức cộng đồng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, các thủ lĩnh. Cụ thể, trong ý thức tư tưởng của cư dân bấy giờ, là các cộng đồng cư dân của nước Văn Lang – Âu Lạc đều có cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên. Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mới nảy sinh, người đương thời còn bảo lưu những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thuỷ như: tín ngưỡng vật tổ, ma thuật, phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển. Nhiều phong tục tập quán được định hình đã nói lên sự phong phú và phát triển của đời sống tinh thần trong xã hội Hùng Vương như tục ăn đất, uống nước bằng mũi, tục giã cối (để làm hiệu lệnh, truyền tin), tục cưới xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết trong mộ đất, mộ có quan tài hình thuyền, chôn chồng lên nhau, chôn trong nồi vò úp nhau, chôn theo đồ tuỳ táng bằng hiện vật. Lễ hội bấy giờ rất phổ biến, thịnh hành, là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người Văn Lang – Âu Lạc. Lễ hội được tiến hành rải rác quanh năm, trong đó đặc sắc nhất là ngày hội mùa với nhiều nghi lễ như đâm trâu, bò và các hình thức diễn xướng dân gian (đoàn người hoá trang, vừa đi vừa múa, tay cầm giáo, lao, nhạc cụ…). Bên cạnh đó, còn có những hội thi tài, thi sức khoẻ, hội đâm trâu, hội cầu nước, hội mừng năm mới… Trong cuộc sống, cư dân thời Hùng Vương rất thích cái đẹp và hướng tới cái đẹp. Đồ trang sức, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt cũng như vũ khí không những hết sức phong phú mà còn đạt đến trình độ kỹ thuật và mỹ thuật rất cao, có những thứ có thể xem như là những tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật Đông Sơn trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương. Nghệ thuật đó vừa phản ánh cuộc sống thường nhật của cư dân Việt cổ, vừa thể hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới chung quanh, với những đường nét có tính ước lệ, cách điệu và một bố cục cân xứng, hài hoà. Nghệ thuật âm nhạc cũng phát triển. Có nhiều nhạc cụ được chế tạo và sử dụng bộ gõ có trống đồng, trống da, chuông nhạc, phách, bộ hơi (khèn). Trong các nhạc cụ, tiêu biểu nhất là trống đồng. Kết cấu trống đồng gồm có phần tang phình ra, phần thân và chân trống loe ra giúp cho hình dáng trống đẹp, có sức cộng hưởng làm cho âm thanh vang xa. Cư dân bấy giờ biết sử dụng nhiều nhạc cụ phối hợp trong các lễ hội. Trên trống đồng Đông Sơn có cảnh sử dụng dàn trống đồng từ 2 đến 4 chiếc, dàn cồng từ 6 đến 8 chiếc và một tốp người vừa múa vừa sử dụng những nhạc khí khác nhau như chuông, khèn, sênh. Trên trống đồng có hình ảnh người nhảy múa hoá trang và múa vũ trang. Có tượng đồng Đông Sơn thể hiện hai người cõng nhau, vừa thổi khèn, vừa nhảy múa. Trống đồng là di vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn và văn minh sông Hồng. Trống loại I (theo sự phân loại của F.Hegơ) là loại trống đồng sớm nhất, đẹp nhất, được sử dụng phổ biến với tư cách là một nhạc khí quan trọng trong các buổi tế, lễ, hội hè, ca múa. Trống đồng Đông Sơn có lẽ còn được sử dụng làm hiệu lệnh chiến đấu, giữ gìn an ninh, được dùng trong tuỳ táng và trao đổi mua bán ở trong nước và với nước ngoài (với Malaixia, Inđônêxia,…). Trống đồng với những nét đặc sắc nói trên, là một sản phẩm lao động, một tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Văn Lang – Âu Lạc, là biểu hiện rõ nét, tập trung của nền văn minh sông Hồng. Cùng với trống đồng, công trình kiến trúc thành Cổ Loa cũng biểu hiện trình độ phát triển cao của cư dân thời Văn Lang – Âu Lạc.+ Tổ chức xã hội: Đứng đầu nhà nước Văn Lang – Âu Lạc là nhà vua, cha truyền con nối. Giúp việc cho nhà vua có các Lạc hầu, Lạc tướng. Nhà nước văn lang đã có một đội quan thường trực với vũ khí bằng đồng, như: dìu chiến, giáo mác, dao găm. Đăc biệt, họ biết sử dụng thành thạo các loại cung nỏ, có loại bắn một lần được nhiều mũi tên. Thời Âu Lạc, nhà vua đóng đô ở thành Cổ Loa.Đơn vị xã hội cơ sở của người Việt cổ là các làng bản, đứng đầu làng bản là các Bố chính (thường là một người già làng), Bình dân làng xã gọi là Lạc dân. Trong làng xã, tinh thần cộng đồng rất sâu đậm. Họ sống quây quần giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết cùng chống kẻ thù đến xâm lấn.- Một số đặc trưng của nền văn minh sông Hồng:+ Về mặt kỹ thuật: Nền văn minh sông Hồng hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc cách mạng luyện kim với nghề đúc đồng dần đạt đến mức hoàn thiện (tiêu biểu là nền văn hóa Đông Sơn). Và trên cơ sở đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng đó, chủ nhân của nền văn hóa đã bước vào Sơ kỳ thời đại đồ sắt.+ Về kinh tế: Nền văn minh sông Hồng thực chất là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước của người Việt cổ sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, một xứ sở có nhiều sông nước, núi rừng, đồng bằng và biển cả.+ Về mặt xã hội: Nền văn minh sông Hồng là một nền văn minh xóm làng dựa trên cơ cấu nông thôn kiểu Á châu của một xã hội phân hóa chưa sâu sắc, gay gắt và nhà nước mới hình thành. Nhà nước vừa có mặt bóc lột công xã, lại vừa đại diện cho lợi ích chung của công xã trong yêu cầu tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, khai hoang, trị thủy làm thủy lợi, tự vệ và chống ngoại xâm.+ Nền văn minh sông Hồng là nền văn minh bản địa đậm nét, kết tinh trong đó bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ: Chung lưng đấu cật, đoàn kết, gắn bó với nhau trong lao động và đấu tranh, giàu tình làng nghĩa nước, tôn trọng người già và phụ nữ, biết ơn và tôn thờ tổ tiên, các anh hùng nghĩa sĩ,…; có cội dễ và cơ sở sâu xa trong cuộc sống lâu đời của các lớp cư dân trên lãnh thổ Văn Lang – Âu Lạc thủa đó.+ Nền văn minh sông Hồng cũng sớm có quan hệ giao lưu mật thiết với các nền văn minh láng giềng, đặc biệt là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ.Như vậy, nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc hay nền văn minh Việt cổ là gọi theo tên của thời gian xuất hiện; Văn minh sông Hồng là gọi theo tên của địa bàn xuất hiện (lưu vực sông Hồng). Nhưng thực ra địa bàn của văn minh Văn Lang – Âu Lạc hay văn minh Việt cổ ngoài lưu vực sông Hồng còn bao gồm cả các triền sông lớn khác của vùng Bắc Trung Bộ như sông Mã, sông Cả,… Khảo cổ học đã chứng minh dòng chảy chủ yếu tạo thành nền văn minh sông Hồng chính là dòng văn hóa sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất màu mỡ của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Trên địa bàn này từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại đồ sát đã diễn ra quá trình hình thành và phát triển của bộ phận dân cư nông nghiệp trồng lúa nước, cốt lõi đầu tiên của người Việt, chủ nhân của nền văn minh Việt cổ. Theo tiến trình phát triển, văn hóa Phùng Nguyên (Sơ kỳ thời đại đồng thau) chính là cội nguồn của nền văn minh sông Hồng. Các giai đoạn văn hóa tiếp theo là văn hóa Đồng Đậu (trung kỳ thời đại đồng thau), văn hóa Gò Mun (hậu kỳ thời đại đồng thau) là quá trình chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của nền văn minh sông Hồng và giai đoạn văn hóa Đông Sơn (Sơ kỳ thời đại đồ sắt). Bên cạnh những dòng chảy chính còn có nền văn hóa Hoa Lộc, nền văn hóa Hạ Long của nhóm cư dân sống ven biển và trên các đảo Đông Bắc thời kỳ trước đó (hậu kỳ đá mới). Nếu ở giai đoạn tiền văn hóa Đông Sơn các nền văn hóa đã có mối liên hệ với nhau, nhưng về cơ bản vẫn còn mang đậm dấu ấn địa phương gắn liền với từng nhóm cư dân trong từng khu vực nhất định thì đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn dù là di chỉ được phát hiện ở đâu, thuộc lưu vực sông Hồng, sông Mã hay sông Cả, dù ở miền đồng bằng châu thổ hay miền núi, mặc dù mỗi vùng vẫn có phong cách riêng nhưng tất cả đều mang những đặc trưng chung của văn hóa Đông Sơn, với những di vật tiêu biểu như: Trống đồng, thạp đồng, thố, dao găm, giáo, dìu, lưỡi cày,… Đây rõ ràng là một nền văn hóa thống nhất của một cộng đồng quốc gia, một cộng đồng bộ tộc đã có sự liên kết với nhau trên một lãnh thổ, một nền tảng kinh tế – xã hội và một lối sống chung. Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn là chặng đường cuối, là sản phẩm tổng hợp, là đỉnh cao của quá trình tạo thành nền văn minh sông Hồng. Quá trình hình thành nền văn minh sông Hồng cũng chính là nền hình thành cư dân Việt cổ và tiếng Việt cổ.Trải qua một chặng đường dài, người Việt cổ đã xây dựng được cho mình một nền văn minh đầu tiên, đó là nền Văn minh sông Hồng – một nền văn minh bản địa đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh tiếp sau của dân tộc Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức mạnh tinh thần để nhân dân Việt Nam đứng vững, vượt qua được thử thách to lớn trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc. (ST)