Ý Nghĩa Tên Tỉnh Bình Dương / Top 14 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Eduviet.edu.vn

Cùng Đi Tìm Nguồn Gốc Tên Gọi Chợ Thủ Dầu Một Của Tỉnh Bình Dương

1. Chợ Thủ Dầu Một có tên gọi đầu tiên là Phú Cường

Theo Cổng thông tin Điện tử tỉnh Bình Dương, chợ Thủ Dầu Một, lúc khởi nguồn được gọi là chợ Phú Cường. Theo lịch sử địa phương, vùng đất Phú Cường đến đầu thế kỷ XVII vẫn còn là đất hoang, cảnh quan nơi đây chính là những khu rừng rậm. Trong đó, hình ảnh nổi bật là những rừng Dầu cổ thụ ở khu vực Chánh Nghĩa hiện nay, nhất là vùng ven sông lúc đó chỉ là những bãi lầy, ngập nước hình thành dần do phù sa sông Sài Gòn bù đắp. Về phía Nam của Phú Cường với những mái nhà ngói chìm trong những tán lá cây xanh. Con rạch nhỏ được phủ kín những thuyền buồm, ngôi chợ được đặt ở khúc rạch đầu tiên.

Khi Nguyễn Hữu Kính vào kinh lược đất Gia Định năm 1698. Khu vực Phú Cường ngày nay, cư dân hội tụ có phần muộn hơn so với Lái Thiêu, Thị Tính nhưng lại tập trung đông và nhanh hơn do vị trí hình thành lỵ sở của tổng Bình Điền, huyện Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa lúc đó.

Bến đò chợ cá Thủ Dầu Một năm 1950, ảnh: Cổng thông tin điện tử Bình Dương.

Địa danh Phú Cường xuất hiện vào khoảng năm 1838 (Đời Vua Minh Mệnh thứ XVIII) cùng với sự thay đổi nhiều tên tổng và thôn của huyện Bình An. Vì vậy, tên gọi chợ Phú Cường cũng có thể được phôi thai trong khoảng thời gian này. Chợ Phú Cường, trong lịch sử hình thành muộn hơn so với một số chợ của huyện Bình An như chợ Tân Hoa, chợ Thị Tính, chợ Bình Nhâm Thượng.

Phần “Thị Điểm” (Chợ Quán) của sách Đại Nam Nhất Thống Chí – bộ sách địa lý được biên soạn trong khoảng thời gian từ 1864 -1875, đã nói đến tên chợ Phú Cường: “Chợ Phú Cường ở thôn Phú Cường, huyện Bình An tục danh gọi là chợ Thủ Dầu Miệt (hay Dầu Một) ở bên lỵ sở huyện, xe cọ ghe thuyền tấp nập đông đảo”. Đến năn 1889, trên địa bàn huyện Bình An, tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập, chợ Phú Cường trở thành chợ tỉnh Thủ Dầu Một. Từ đó, tên chợ Thủ hoặc Thủ Dầu Một lại được nhắc nhiều đến trong dân gian và cả trong thơ ca, sách báo. 

Trước khi người Pháp xâm chiếm đồn binh Thủ Dầu Một năm 1861, thì chợ Phú Cường đã là nơi buôn bán sầm uất, nhiều xe cộ, ghe thuyền quy tụ về trao đổi buôn bán hàng hóa.

2. Chợ Thủ Dầu Một – lối kiến trúc kiểu Pháp theo mô tuýp châu Âu

Cũng theo Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương, sau khi người Pháp chiếm Nam Kỳ lục tỉnh, trong đó, có tỉnh Biên Hòa (huyện Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa), người Pháp đã tiến hành phục hồi và biến đổi hoàn toàn chợ Phú Cường với cổng lát đá và đắp đường cao bên trong. Theo “địa phương chí Bình Dương” viết vào năm 1888, nhà cầm quyền Pháp cho lấp con rạch Phú Cường ăn thông với sông Sài Gòn và đã hoàn thành công việc này vào năm 1890.

Đến năm 1935, người Pháp nhận thấy việc đầu tư vào chợ có lợi lớn, họ đã tiến hành phục hồi và biến đổi hoàn toàn chợ Phú Cường mô phỏng theo kiểu các ngôi chợ xưa ở Pháp có cấu trúc gần giống chợ Nam Vang (Campuchia) và chợ Bến Thành (Sài Gòn). Điểm đặc biệt của mô hình trên là họ vẫn tôn trọng, giữ nguyên vị trí cũ. Năm 1938, chợ Thủ được khánh thành với mô hình mới, kiến trúc phóng khoáng, trang nhã, vào thời đó và có lợi thế hơn nhiều nơi khác. 

Chợ Thủ Dầu Một trước năm 1975, ảnh: Cổng Thông tin Điện tử Bình Dương.

Chợ được phân thành bảy khu lớn nhỏ và được xây dựng theo kiểu hình chữ nhật gồm ba căn nhà tách biệt nhau. Từ đường Trần Hưng Đạo đi vào, ta bắt gặp căn nhà dài một lầu, một trệt nhà còn gọi là (khu Thương Xá) xây dựng và bố trí phân theo từng phân khu nhỏ dân gian vẫn thường gọi là “sạp chợ” để bày bán các mặt hàng hóa.

Sau khu Thương Xá là căn nhà ngang (khu ăn uống), xây dựng giữa khu Thương Xá và khu Đồng hồ, được bài trí thành ba gian chính để phục vụ việc ăn uống. Phía sau là căn nhà dài – nhà dãy chợ (hay khu chợ Đồng Hồ) cũng được xây xựng và bài trí theo từng phân khu nhỏ kể cả ngay dưới chân Tháp Đồng Hồ chợ.

Chợ Thủ Dầu Một ngày nay, ảnh: foody.vn

Nhà dãy chợ là căn đầu tiên thực dân Pháp xây dựng vào năm 1935, với lối kiến trúc tạo dáng hình con tàu mà đỉnh tháp là chiếc đồng hồ nặng về mô típ Châu Âu, do ông Bonnemain kiến trúc sư người Pháp thiết kế và khánh thành năm 1938. Dãy nhà xây dựng theo kiến trúc nhà dài, có diện tích 2.590m2, có hai mái chia thành hai tầng, chiều cao từ nền đến đỉnh là 10.3m. Nhà có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển của chợ Thủ.

Tháp Đồng hồ chợ được xây dựng theo kiểu hình lục giác gắn liền với nhà dãy chợ, có chiều cao 23.72m, gồm bốn lầu. Lầu trệt từ nền tới trần có chiều cao 6,5m được đổ bằng bê tông, cốt thép, có bậc thang lên xuống làm bằng sắt và được gắn ở phía trong của tháp. Ngoài lát đá và ghép gạch bông ở mặt phía Đông và Tây của tháp.

Chợ Thủ Dầu Một hiện nay là trung tâm thương mại tiêu biểu của Bình Dương,

ảnh cắt clip – Trung tâm Xúc tiến Du lịch Bình Dương

Từ lầu hai trở lên tháp được đắp đường cao bên trong thành tám cột trụ ở các cạnh hình lục giác. Tháp được xây dựng theo kiểu tam cấp càng lên cao càng thu hẹp. Lên đến lầu ba tháp được đổ tấm đan bê tông và xây cao chừng một mét để làm nền cho mặt đồng hồ cũng là nơi để gắn Đồng hồ. Trên nền của mặt đồng hồ được làm bằng nền màu trắng, con số màu xanh và kim chỉ đồng hồ được sơn màu đen.

Trên đồng hồ được đổ bốn tấm đan bê tông gắn phía trên đồng hồ để che nắng mưa. Trên đỉnh tháp được gắn 4 chiếc đồng hồ. Chính từ những chiếc đồng hồ được bố trí theo Đông – Tây – Nam – Bắc, đã tạo nên một dấu ấn đặc sắc, hình thành tình cảm quên thuộc, sâu sắc của người dân Bình Dương.

Hình ảnh tháp chợ Đồng hồ là nhịp sống trái tim và là biểu tượng đã trải bao lần thịnh suy trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất này.

Nguồn clip: Trung tâm Xúc tiến Du lịch tỉnh Bình Dương

Hiện chợ Thủ Dầu Một tọa lạc trên một vị trí tương đối bằng phẳng, nằm sát sông Gài Gòn và các con đường bao quanh chợ; phía Bắc giáp với đường Nguyễn Thái Học, phía Nam giáp đường Bạch Đằng, phía Tây giáp đường Đoàn Trần Nghiệp, Đông giáp đường Trần Hưng Đạo. Chợ là trung tâm có vị trí khá thuận lợi cho việc trao đổi và buôn bán.

Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Bình Dương

Vì Sao Có Tên Tỉnh “Quảng Bình”

Tới 1069, vua Chiêm Thành là Chế Củ bị vua Lý Thánh Tông đánh thua, dâng ba Châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông đổi Địa Lý thành Lâm Bình. Năm 1361,vua Trần Duệ Tông lần lượt đổi Châu Lâm Bình là phủ Lâm Bình, phủ Tân Bình (1375), và lộ Tân Bình. Năm 1400, Hồ Quí Ly đổi lộ Tân Bình thành Trần Tây Bình. Giặc nhà Minh lại đổi là phủ Tân Bình kèm thêm hai châu Bố Chính và Minh Linh. Dẹp xong giặc Minh, nhà Hậu Lê đặt thành lộ Tân Bình thuộc đạo Hải Tây. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông đặt là phủ Tân Bình gồm hai huyện Lệ Thủy là Khương Lộc. Hai châu Bố Chính và Minh Linh tách ra thuộc về Thuận Hóa, phủ Tân Bình đổi tên thành Tiên Bình dưới đời vua Lê Kính Tông (1601).

Năm 1604, chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Tiên Bình thành phủ Quảng Bình, rồi là dinh Quảng Bình. Từ năm 1627, cuộc phân tranh Trịnh – Nguyễn đã chia đất Quảng Bình làm hai, lấy sông Gianh làm ranh giới, gây sôi động không lúc nào yên. Phía Bắc gọi là Bắc Bố Chính (đàng ngoài) và phía Nam là Nam Bố Chính (đàng trong), cũng gọi là Bắc Hà và Nam Hà. Năm 1831 vua Minh Mạng đặt lại tên thành tỉnh Quảng Bình và tên đó tồn tại đến ngày nay, chỉ thay đổi diện tích lớn nhỏ mà thôi.

Truyền Thuyết Về Một Số Vị Thần Được Thờ Tại Phước An Miếu, Phường Chánh Nghĩa, Thị Xã Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương

Truyền thuyết về một số vị thần được thờ tại Phước An Miếu, phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương

Phước An miếu hiện toạ lạc tại khu 7, phường Chánh Nghĩa do người Hoa họ Lý lập năm 1882 thờ Thất Phủ Đại Nhân. Miếu thờ Thất phủ Đại nhân có tại cố hương Trung Quốc từ rất lâu đời. Khi sang Việt Nam, định cư tại khu vực Chánh Nghĩa ngày nay người Hoa họ Lý cũng lập miếu thờ Thất Phủ đại nhân, trước tiên là để tạ ơn các vị thần đã phò trợ cho họ được an cư lạc nghiệp, sau đó là giải quyết nhu cầu tinh thần, an ủi những người xa xứ luôn nhớ và tiếp nối truyền thống tín ngưỡng từ cố hương. Cũng giống như các đền miếu của người Việt, chùa ông Bổn ngoài tượng bảy vị Đại nhân, cũng tích hợp đa thần như Trương Thiên Sư (Trương Đạo Lăng – đời Hán), Bao Công (đời Tống), Cửu Thiên Huyền Nữ… Trong bài viết này, người viết xin giới thiệu về truyền thuyết của Thất phủ đại nhân, Bảo Sanh đại đế và Trương Đạo Lăng là những nhân vật ít được biết đến hơn so với Cửu Thiên Huyền Nữ, Na Tra hay Bao Công…

Từ trước tới nay, khi nhắc đến ông Bổn, người ta thường nghĩ rằng chỉ có một ông là ông Bổn. Những thực ra danh từ”ông Bổn” là cách mà người Việt gọi những vị thần mà người Hoa tôn thờ với ý nghĩa là “bổn xứ” của người Hoa. “ông Bổn” của cộng đồng họ Vương – Phước Kiến, Bình Dương là Huyền Thiên Thượng Đế; người Hoa (Phúc Kiến) ở Chợ Lớn đã cụ thể hóa là Châu Đạt Quan – một vị quan đời Nguyên; người Hoa gốc Triều Châu, Hải Nam ở miền Tây Nam bộ lại cụ thể hóa là Tam Bảo Thái Giám Trịnh Hòa – người đời Minh; người Triều Châu (ở Hội An) cụ thể hóa là Phục Ba Tướng Quân Mã Viện; người Quảng Đông ở Chợ Lớn cho Ông Bổn của họ là Thần Thổ Địa…còn ông Bổn họ Lý cũng người Phước Kiến thờ gồm 7 ông gồm các ông họ: Lịch, Chu, Quách, Tiêu, Triệu, Lý và Châu. Theo truyền thuyết kể lại rằng vào đời Đông Hán (25 – 220) có hơn 300 sĩ tử lên Trường An ứng thí. Các ông là những người lãng tử, thích thơ phú, hát hò nên thường tụ tập lại mà đờn ca diễn xướng trong một hang động nên bị Trương Tiên Sư, tên hiệu là Trương Đạo Lăng – là người chế tạo ra những bùa ngải, là thầy pháp trong cung – ghen ghét và tìm cách hãm hại. Ông lập mưu, chuốc rượu cho nhà vua say rồi ban ra một chiếu chỉ nhằm giết hết những sĩ tử nọ. Ông Trương Đạo Lăng đem chiếu chỉ của nhà vua,làm phép làm cho cửa hang sập xuống, chôn vùi toàn bộ hơn 300 người. Những oan hồn của các sĩ tử liên tục hiện lên hỏi nhà vua vì sao lại giết họ. Nhà vua đem giấc mộng hỏi lại Trương Đạo Lăng. Trương Đạo Lăng bèn lấy ống tre, làm phép nhốt hết những linh hồn của họ lại rồi thả xuống sông cho trôi ra biển. Nhưng ống tre đó không trôi ra biển mà dạt vào bên bờ. Đám ăn mày thấy lạ liền vớt lên, mở lớp vải bọc đầu ống tre ra, lập tức hồn mấy ông thoát ra và lại hiện về hỏi Vua. Nhà Vua lần này hiểu rõ sự tình, vừa hối hận vì đã vô tình làm chết oan người, vừa thương tiếc tài năng của họ nên bèn ra chỉ dụ phong cho ai ở họ nào thì làm đại nhân họ đó và người nào ở vùng nào thì nhân dân vùng đó lập miếu thờ cúng. Huyện An Khê, tỉnh Phước Kiến có 7 người trên nên lập miếu thờ các vị.

Khi người An Khê di cư sang đây đã mang theo luôn văn hóa thờ cúng của họ và lập miếu thờ 7 ông. Đầu tiên, họ chỉ mang tượng của 5 ông, sau này mới thêm tượng ông họ Châu và tượng ông họ Lịch là tượng cuối cùng được đem sang. Hàng năm cúng có hai lễ hội lớn là lễ hội rằm tháng giêng (16 – 2) rước các ông đi tuần du thăm thú đời sống của bà con và tảo trừ yêu quái và lễ hội 12 – 8, gọi là lễ mừng Sinh nhật ông. Khi rước, vị trí của các ông cũng không thay đổi. Có năm, người ta vì sơ ý mà để nhầm vị trí của ông họ Tiêu lên trước ông họ Quách thay vì ông họ Quách rồi mới tới ông họ Tiêu, lập tức khi rước cốt ông nhảy lên đòi đổi lại vị trí. Từ đó người ta càng biết thêm uy danh của các ông mà không dám sơ suất. Vì Thất phủ đại nhân là nhân thần nên lễ vật có cả đồ chay, đồ mặn chứ không phải chỉ có dỗ chay như ông Bổn – Huyền Thiên Thượng Đế của người Hoa Phước Kiến họ Vương. Đây cũng là một trong những đặc điểm khác biệt dễ nhận thấy khi phân biệt hai đối tượng thờ cúng của hai họ Lý và họ Vương.

“Bảo Sanh Đại Đế” còn có tên gọi là Đại đạo Công, Ngô Chân Quân. Ông người họ Ngô tên Thao – Người quê Bạch Tiêu, huyện Long Hải, tỉnh Phúc Kiến, triều đại nhà Tống. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo khó, từ nhỏ đã có tư chất hơn người, học rộng thông hiểu mọi sách vở, tinh thông y dược, biết cả luyện đan châm cứu. Ông đi hành nghề khắp chốn, chữa bệnh như thần, là cao nhân chữa bệnh cho phụ nữ, còn là chuyên gia chữa bệnh sản nhũ (đau vú). Đương thời các danh y nổi tiếng như Hoàng Y Quan, Trình Thân Nhân, Tiên Cô… đều là đệ tử của ông. Ông còn sáng tác nhiều tác phẩm về y học cổ truyền lại cho đời sau.

Theo truyền thuyết, khi mẹ Nhân Tông Hoàng đế bị nhũ tật. Các vị thái y đều bó tay vô kể. Cuối cùng phải nhờ tay ông chữa trị. Thầy thuốc đến, bệnh tiêu tán.

Nhân Tông Hoàng đế vô cùng phấn khởi,mời ông ở lại làm ngự y trong cung. NgọcChân Quân tâu: “Chí của thần là ở tư chân” (sửa sang chân tính), tù bi cứu thế!, vinh hoa phú quá không phải điều mong muốn của thần!.

Nhân Tông nghe tâu thế nhà vua vô cùng cảm phục, không miễn cưỡng bắt ông ở lại. Ông trở về với nhân dân, dùng kỹ thuật châm cứu cách chữa trị tuyệt vời của mình để cứu dân độ thế, cứu sống được bao người.

Khi ông qua đời, Bạch Tiêu quê hương thân yêu của ông lập đền thờ để kỷ niệm, sau đó Cao Tông lên nối ngôi nghe biết chuyện vị thần y này đã chữa khỏi bệnh cho tổ mẫu của nhà vua liền lệnh cho nhân dân theo địa chỉ Thu Long xây dựng một toà vũ miếu huy hoàng tráng lệ tức là cung “Bạch Tiêu Từ Tế”.

Đến đời nhà Minh, những đệ tử được Ngô Thao truyền lại, lại chữa trị khỏi bệnh nhũ tật (Đau vú) cho Vĩnh Lạc Hoàng Hậu. Vĩnh Lạc Đế đặc sai thợ khắc một con sư tử đá – “Quốc Mẫu Sư” vận chuyển đến cung Bạch Tiêu. Từ Đế cấp cho vị Bảo Sanh Đại Đế đã trở thành Thần Y – Ngô Thao “Quốc Mẫu Sư đặc kỳ” này hiện nay vẫn còn trong tổ miếu, consư tử đá này tay phải giơ cao tượng Thân Sư Ngô Tốt (Ngô Thao).

Khi di cư sang Việt Nam, người Hoa cũng đem theo cả văn hóa thờ ông, người Hoa họ Lý – Phước Kiến lập bài vị ông thờ tại Bích Liên Đình, thỉnh ông cùng Phật Bà Quan Âm và Quan Thánh Đế Quân cùng tuần du với 7 ông Bổn trong ngày rằm tháng giêng. Trong lễ hội 12 – 8 (sinh nhật Ông) thường có tục lên đồng cốt. Người dân không chỉ trông đợi cốt của Thất phủ đại nhân lên mà còn rất trông đợi cốt của Bảo Sanh Đại Đế. Bởi khi lên cốt, những người có bệnh khó chữa hoặc những người làm nghề y đến xin Ông chỉ cho bài thuốc chữa bệnh. Ông nhảy lên kiệu, mọi người vui mừng khiêng đi. Dọc đường đi ông chỉ loại cây cỏ nào thì đó là những cây thuốc, đem về chữa bệnh rất công hiệu nên sự tin tưởng và tôn kính đối với ông rất lớn. Người Hoa quanh vùng còn tin tưởng đem bùa của Ông về dán tại cửa nhà hay đem theo mình để bệnh tật không thể xâm phạm được và cũng thể hiện ước vọng được mạnh khỏe, không đau ốm, bệnh tật cho bản thân và những người trong gia đình.

Người sáng lập ra Đạo giáo là Trương Đạo Lăng vốn ở đất Phong thuộc nước Bái (nay là huyện Phong tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) thời Đông Hán. Ông đã từng là quan huyện ở huyện Giang Châu dưới triều Thuận Đế (năm 126 – 144 sau Công nguyên) đời Đông Hán. Ông đưa đệ tử tới Hạc Minh Sơn ở Tứ Xuyên để tu dạo. Vì những người nhậpđạo phải nộp năm đấu gạo nên đạo này có tên là “Ngũ đẩu mễ đạo” (Đạo năm đấu gạo). Đạo này thờ Lão Đam tức là nhà triết học cổ đại Lão Tử làm giáo chủ, tôn xưng Lão Đam làm “Thái thượng lão quân”, lại lấy sách “Đạo đức kinh” của Lão Tử và “Chính nhất kinh” làm hai kinh điển chủ yếu. Sau khi Trương Đạo Lăng qua đời, con trai ông là Trương Hoành và cháu ông là Trương Lỗ tiếp tục truyền đạo và tôn Trương Đạo Lăng làm “Thiên Sư”. Tương truyền rằng, ông Tổ của Trương Tiên sư được một vị tiên chỉ cho rằng nếu vào núi, mặc áo quan rồi ngồi trên ghế thì bản thân và con cháu sẽ được làm quan. Ông y lời, vào trong núi thì thấy đúng là có một chiếc ghế thật. Mừng quá, ông quên không mặc áo quan mà ngồi luôn lên ghế, chiếc ghế liền sụp xuống hố. Ông bị nhốt trong đó mà tu thành đạo pháp. Con cháu đời sau của ông không ai làm quan mà đều làm thầy pháp, có yêu thuật, làm ra bùa gọi là bùa Lỗ Ban.

Trong lễ hội tại Phước An miếu, ta có thể thấy nghi lễ khi cúng tế là của Đạo giáo và được thực hành bởi thầy pháp – những đệ tử của Đạo Thiên sư. Vì vậy đó là lý do tại sao thờ ông tổ Đạo giáo Trương Đạo Lăng. Tại Bình Dương, thầy pháp chỉ còn hai thầy là thầy pháp Lý Kim Tịnh và thầy pháp Vương Sáng thay nhau thực hành nghi lễ tại những lễ hội của hai họ Vương và họ Lý Phước Kiến bởi nghi thức tại những chùa ông Bổn họ Vương Phước Kiến cũng mang màu sắc Đạo giáo.

Những truyền thuyết là những câu chuyện có thật về một sự kiện, một nhân vật nào đó và đã được thêm thắt để mang màu sắc huyền bí qua nhiều thế hệ. Qua những truyền thuyết đó, ta tìm thấy sự thật. Sức sống mãnh liệt, trường tồn của truyền thuyết không chỉ vì được ghi chép qua sách vở mà là qua những dạng động như qua truyền miệng, qua lễ hội….

Những lễ hội đầy màu sắc của người Hoa đã làm phong phú thêm bức tranh văn hóa Bình Dương cũng như những truyền thuyết càng làm dồi dào thêm nền văn hóa dân gian của tỉnh nhà.

HẠ TRÚC

Giới Thiệu Về Bình Dương

Giới thiệu về Bình Dương Giới thiệu về Bình Dương

[ Đăng ngày: 26/12/2012 ]

Giới thiệu chung

BÌNH DƯƠNG: ĐIỂM ĐẾN CỦA HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN

Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và một phần thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh và một phần tỉnh Đồng chúng tôi Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 29/12/2013 của Chính phủ, tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiên là 2.694,43 km2 (chiếm khoảng 0,83% diện tích cả nước, khoảng 12% diện tích miền Đông Nam Bộ); dân số 1.802.500 người (Tổng cục Thống kê – tháng 10/2014); 09 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm: thành phố Thủ Dầu Một, thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An, thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên và các huyện Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên, Dầu Tiếng, Phú Giáo) và 91 đơn vị hành chính cấp xã (48 xã, 41 phường, 02 thị trấn).

Thuở ban đầu thời mở đất phương Nam, Bình Dương là tên một tổng thuộc huyện Tân Bình, phủ Gia Định. Đến năm 1808, khi huyện Tân Bình được đổi thành phủ thì Bình Dương được nâng lên một trong bốn huyện của phủ này. Năm 1956, tỉnh Bình Dương được thiết lập nhưng không phải trùng với địa bàn của huyện Bình Dương xưa kia. Đến năm 1997, tỉnh Bình Dương được tái lập, nhưng cũng không phải hoàn toàn là địa phận của tỉnh Bình Dương trước năm 1975. Như vậy, trong lịch sử, Bình Dương là tên gọi của những đơn vị hành chính theo những cấp độ khác nhau (tổng, huyện, tỉnh) với những địa bàn lãnh thổ khác nhau. Vốn gắn liền với Gia Định, Đồng Nai xưa, tức là miền Đông Nam Bộ ngày nay, cư dân Bình Dương là một bộ phận cư dân miền Đông Nam bộ, nhưng đồng thời Bình Dương là vùng đất được bao bọc bởi sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, có những điều kiện sinh thái đặt biệt nên cư dân Bình Dương có những đặc điểm riêng từ lịch sử hình thành đến kỹ năng nghề nghiệp.

Vùng đất Bình Dương từ lâu đã được biết đến với hình ảnh nhộn nhịp của sự giao thương và hội tụ từ nhiều vùng miền trong cả nước. Dưới thời thuộc địa của Pháp, như cách gọi của người đương thời, đó là tỉnh lỵ của một “tỉnh miệt vườn” thuần nông, chỉ có hai trục giao thông chính là sông Sài Gòn và Quốc lộ 13, dân số chỉ vài vạn người, chủ yếu là nông dân.

Khoảng đầu thập niên 90 thế kỷ trước, ít ai nghĩ rằng Bình Dương sẽ vượt lên trở thành một trong những tỉnh công nghiệp hàng đầu của cả nước. Bình Dương khi đó chỉ là một tỉnh thuần nông, người dân nhiều đời gắn bó với ruộng đồng, cây trái. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, trong khi công nghiệp và dịch vụ còn quá nhỏ bé. Tuy nhiên, từ thời khắc lịch sử, Ngày tái lập tỉnh (01/01/1997), Bình Dương đã trỗi dậy với chủ trương đổi mới được cụ thể hóa bằng những chính sách thông thoáng, mở đường cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương. Bằng việc xây dựng cơ sở hạ tầng, quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh, dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước ồ ạt chảy về Bình Dương, nhà máy mọc lên khắp nơi, nguồn nhân lực bốn phương quy tụ về… Kinh tế – xã hội của Bình Dương bắt đầu đạt những thành tựu đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp, bộ mặt đô thị hóa đã được hình thành rõ nét.

Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore I (VSIP I) (Ảnh: Hoàng Phạm)

Bình Dương đã biến vùng đất thuần nông, khô cằn, kém hiệu quả trở thành những khu, cụm công nghiệp trọng điểm của cả nước. Đến nay, toàn tỉnh có 28 khu công nghiệp và 8 cụm công nghiệp, với tổng diện tích khoảng 10.000ha. Trong đó có những khu công nghiệp tiêu biểu cho cả nước về xây dựng kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ và hiện đại, về tốc độ thu hút đầu tư, quản lý sản xuất và bảo vệ môi trường như VSIP 1, 2, Mỹ Phước, Đồng An, … Bằng những chính sách phù hợp, đến tháng 10 năm 2014, Bình Dương đã thu hút được 2.356 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn là 20 tỷ 200 triệu đô la Mỹ, trên 17.000 doanh nghiệp trong nước. Nhiều khu đô thị và dân cư mới văn minh, hiện đại được hình thành, trong đó tiêu biểu nhất là thành phố mới Bình Dương với điểm nhấn là Trung tâm hành chính tập trung của tỉnh đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 20/02/2014.

Không chỉ ấn tượng bởi kinh tế phát triển, năng động, vùng đất Bình Dương xưa và nay còn được biết đến với bề dày lịch sử, văn hóa phát triển rất phong phú, đa dạng, có nhiều nét chung hòa quyện vào lịch sử – văn hóa phương Nam nhưng vẫn giữ được những nét riêng rất độc đáo, tạo ấn tượng khó phai trong lòng mỗi người dân. Tính đến nay, tỉnh Bình Dương có 11 di tích lịch sử, văn hóa được công nhận cấp quốc gia, 39 di tích lịch sử, văn hóa được công nhận cấp tỉnh. Trong tiến trình phát triển vùng đất mang đậm nét văn hoá làng nghề thủ công truyền thống, Bình Dương tạo dấu ấn sâu sắc với các sản phẩm thủ công được chế tác từ những làng nghề nổi tiếng đã định vị trên địa bàn hơn 300 năm. Tiêu biểu nhất trong số đó là những nghề đã có từ rất sớm và phát triển mạnh ở đất Thủ – Bình Dương như: Làng gốm sứ ở Lái Thiêu, Tân Phước Khánh; làng mộc, chạm khắc gỗ ở Chánh Nghĩa, Phú Thọ; làng sơn mài ở Tương Bình Hiệp…

Ngoài ra, đến với Bình Dương, các du khách còn được tham quan các danh lam, thắng cảnh, khu du lịch sinh thái, tham gia các lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm thu hút sự tham gia của hàng ngàn lượt khách thập phương như: Lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu (thành phố Thủ Dầu Một), vườn trái cây Lái Thiêu với đặc sản là măng cụt và sầu riêng (thị xã Thuận An), khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn hiến, khu du lịch Núi Cậu – Lòng hồ Dầu Tiếng,…; cùng thưởng thức vị ngon đặc trưng của ẩm thực Bình Dương, thương hiệu Bánh bèo Mỹ Liên (Chợ Búng, phường An Thạnh, thị xã Thuận An) có lịch sử hơn 100 năm, được công nhận là một trong 10 món đặc sản Việt Nam đạt giá trị ẩm thực châu Á…

Với lịch sử hơn 300 năm hình thành và phát triển, đất và người Bình Dương đã, đang và sẽ tiếp tục tạo được hình ảnh và ấn tượng sâu sắc trong lòng của bạn bè quốc tế. Đó không chỉ là sự ấn tượng bởi kinh tế phát triển, năng động, của một môi trường đầu tư thông thoáng mà còn ở đôi bàn tay khéo léo và khối óc sáng tạo của người Bình Dương đã thể hiện thông qua các sản phẩm thủ công vừa đẹp mắt, vừa tinh tế, chuyển tải trong đó những thông điệp đối ngoại tốt đẹp ra thế giới.

Bình Dương luôn là vùng đất của hội tụ. Thế và lực của Bình Dương hôm nay là kết quả phấn đấu kiên cường, năng động, sáng tạo không ngơi nghỉ của bao lớp cư dân trên vùng đất này qua các thời kỳ lịch sử. Đó là hành trang, là vốn liếng quan trọng để Bình Dương cất cách trong thời kỳ mới – thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trước năm 2023.

Điều kiện tự nhiên

Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, diện tích tự nhiên 2.695,22km2 (chiếm khoảng 0,83% diện tích cả nước, khoảng 12% diện tích miền Đông Nam Bộ). Dân số 1.482.636 người (1/4/2009), mật độ dân số khoảng 550 người/km2.

Địa hình

Bình Dương là một tỉnh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy Trường Sơn, nối nam Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; là tỉnh bình nguyên có địa hình lượn sóng yếu từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển. Vị trí trung tâm của tỉnh ở vào tọa độ địa dư từ 10o-50’-27’’ đến 11o-24’-32’’ vĩ độ bắc và từ 106o-20’ đến 106o25’ kinh độ đông.

Vùng đất Bình Dương tương đối bằng phẳng, thấp dần từ bắc xuống nam. Nhìn tổng quát, Bình Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau: vùng địa hình núi thấp có lượn sóng yếu, vùng có địa hình bằng phẳng, vùng thung lũng bãi bồi … Có một số núi thấp, như núi Châu Thới (huyện Dĩ An), núi Cậu (còn gọi là núi Lấp Vò) ở huyện Dầu Tiếng… và một số đồi thấp.

Các quy luật tự nhiên tác động lên vùng đất này tạo nên nhiều dạng địa mạo khác nhau: có vùng bị bào mòn, có vùng tích tụ (do có sự lắng đọng của các vật liệu xâm thực theo dòng chảy), có vùng vừa bị bào mòn, vừa tích tụ và lắng đọng. Nguyên nhân chủ yếu là do nước mưa và dòng chảy tác động trên mặt đất, cộng với sự tác động của sức gió, nhiệt độ, khí hậu, sự sạt lở và sụp trượt vì trọng lực của nền địa chất. Các sự tác động này diễn ra lâu dài hàng triệu năm.

Đất đai

Đất đai Bình Dương rất đa dạng và phong phú về chủng loại:

+ Đất xám trên phù sa cổ, có diện tích 200.000 ha phân bố trên các huyện Dầu Tiếng, Bến Cát, Thuận An, thị xã Thủ Dầu Một. Loại đất này phù hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là cây công nghiệp, cây ăn trái.

+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ, có khoảng 35.206 ha nằm trên các vùng đồi thấp thoải xuống, thuộc các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, khu vực thị xã Thủ Dầu Một, Thuận An và một ít chạy dọc quốc lộ 13. Đất này có thể trồng rau màu, các loại cây ăn trái chịu được hạn như mít, điều.

+ Đất phù sa Glây (đất dốc tụ), chủ yếu là đất dốc tụ trên phù sa cổ, nằm ở phía bắc huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, Thuận An, Dĩ An; đất thấp mùn Glây có khoảng 7.900 ha nằm rải rác tại những vùng trũng ven sông rạch, suối. Đất này có chua phèn, tính axít vì chất sunphát sắt và alumin của chúng. Loại đất này sau khi được cải tạo có thể trồng lúa, rau và cây ăn trái, v.v…

Khí hậu

Khí hậu ở Bình Dương cũng như chế độ khí hậu của khu vực miền Đông Nam Bộ: nắng nóng và mưa nhiều, độ ẩm khá cao. Đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định, trong năm phân chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến cuối tháng 10 dương lịch.

Vào những tháng đầu mùa mưa, thường xuất hiện những cơn mưa rào lớn, rồi sau đó dứt hẳn. Những tháng 7,8,9, thường là những tháng mưa dầm. Có những trận mưa dầm kéo dài 1-2 ngày đêm liên tục. Đặc biệt ở Bình Dương hầu như không có bão, mà chỉ bị ảnh hương những cơn bão gần.

Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Bình Dương từ 26oC-27oC. Nhiệt độ cao nhất có lúc lên tới 39,3oC và thấp nhất từ 16oC-17oC (ban đêm) và 18oC vào sáng sớm. Vào mùa nắng, độ ẩm trung bình hàng năm từ 76%-80%, cao nhất là 86% (vào tháng 9) và thấp nhất là 66% (vào tháng 2). Lượng nước mưa trung bình hàng năm từ 1.800-2.000mm. Tại ngã tư Sở Sao của Bình Dương đo được bình quân trong năm lên đến 2.113,3mm.

Thủy văn, sông ngòi

Chế độ thủy văn của các con sông chảy qua tỉnh và trong tỉnh Bình Dương thay đổi theo mùa: mùa mưa nước lớn từ tháng 5 đến tháng 11 (dương lịch) và mùa khô (mùa kiệt) từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, tương ứng với 2 mùa mưa nắng. Bình Dương có 3 con sông lớn, nhiều rạch ở các địa bàn ven sông và nhiều suối nhỏ khác.

Sông Đồng Nai là con sông lớn nhất ở miền Đông Nam Bộ, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên (Lâm Đồng) dài 635 km nhưng chỉ chảy qua địa phận Bình Dương ở Tân Uyên. Sông Đồng Nai có giá trị lớn về cung cấp nước tưới cho nền nông nghiệp, giao thông vận tải đường thủy và cung cấp thủy sản cho nhân dân.

Sông Sài Gòn dài 256 km, bắt nguồn từ vùng đồi cao huyện Lộc Ninh (tỉnh Bình Phước). Sông Sài Gòn có nhiều chi lưu, phụ lưu, rạch, ngòi và suối. Sông Sài Gòn chảy qua Bình Dương về phía Tây, đoạn từ Lái Thiêu lên tới Dầu Tiếng dài 143 km, độ dốc nhỏ nên thuận lợi về giao thông vận tải, về sản xuất nông nghiệp, cung cấp thủy sản. Ở thượng lưu, sông hẹp (20m) uốn khúc quanh co, từ Dầu Tiếng được mở rộng dần đến thị xã Thủ Dầu Một (200m).

Sông Thị Tính là phụ lưu của sông Sài Gòn bắt nguồn tự đồi Cam xe huyện Bình Long (tỉnh Bình Phước) chảy qua Bến Cát, rồi lại đổ vào sông Sài Gòn ở đập Ông Cộ. Sông Sài Gòn, sông Thị Tính mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở Bến Cát, thị xã, Thuận An, cùng với những cánh đồng dọc sông Đồng Nai, tạo nên vùng lúa năng suất cao và những vườn cây ăn trái xanh tốt.

Sông Bé dài 360 km, bắt nguồn từ các sông Đắc RơLáp, Đắc Giun, Đắc Huýt thuộc vùng núi tỉnh Đắc Lắc hợp thành từ độ cao 1000 mét. Ở phần hạ lưu, đoạn chảy vào đất Bình Dương dài 80 km. Sông Bé không thuận tiện cho việc giao thông đường thủy do có bờ dốc đứng, lòng sông nhiều đoạn có đá ngầm, lại có nhiều thác ghềnh, tàu thuyền không thể đi lại.

Giao thông

Bình Dương là một tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy rất quan trọng nối liền giữa các vùng trong và ngoài tỉnh. Trong hệ thống đường bộ, nổi lên đường quốc lộ 13 – con đường chiến lược cực kỳ quan trọng xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, chạy suốt chiều dài của tỉnh từ phía nam lên phía bắc, qua tỉnh Bình Phước và nối Vương quốc Campuchia đến biên giới Thái Lan. Đây là con đường có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự và kinh tế.

Đường quốc lộ 14, từ Tây Ninh qua Dầu Tiếng đi Chơn Thành, Đồng Xoài, Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) xuyên suốt vùng Tây Nguyên bao la, là con đường chiến lược quan trọng cả trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước. Ngoài ra còn có liên tỉnh lộ 1A từ Thủ Dầu Một đi Phước Long (Bình Phước); Liên tỉnh lộ 13 từ Chơn Thành đi Đồng Phú, Dầu Tiếng; liên tỉnh lộ 16 từ Tân Uyên đi Phước Vĩnh; lộ 14 từ Bến Cát đi Dầu Tiếng … và hệ thống đường nối thị xã với các thị trấn và điểm dân cư trong tỉnh.

Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa 3 con sông lớn, nhất là sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Tài nguyên rừng

Do đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm và đất đai màu mỡ, nên rừng ở Bình Dương xưa rất đa dạng và phong phú về nhiều chủng loài. Có những khu rừng liền khoảnh, bạt ngàn. Rừng trong tỉnh có nhiều loại gỗ quý như: căm xe, sao, trắc, gõ đỏ, cẩm lai, giáng hương … Rừng Bình Dương còn cung cấp nhiều loại dược liệu làm thuốc chữa bệnh, cây thực phẩm và nhiều loài động vật, trong đó có những loài động vật quý hiếm.

Hiện nay, rừng Bình Dương đã bị thu hẹp khá nhiều do bị bom đạn, chất độc hóa học của giặc Mỹ tàn phá trong chiến tranh. Trong những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt, Mỹ-ngụy đã ủi phá rừng, bứng hết cây cối nhằm tạo thành những “vùng trắng”, đẩy lực lượng cách mạng ra xa căn cứ càng làm cho rừng thêm cạn kiệt. Mặt khác, sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc khai thác rừng bừa bãi cũng làm cho rừng bị thu hẹp.

Tài nguyên khoáng sản

Cùng với những giá trị quý giá về tài nguyên rừng, Bình Dương còn là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi chứa đựng nhiều loại khoáng sản phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất. Đó chính là cái nôi để các ngành nghề truyền thống ở Bình Dương sớm hình thành như gốm sứ, điêu khắc, mộc, sơn mài …

Bình Dương có nhiều đất cao lanh, đất sét trắng, đất sét màu, sạn trắng, đá xanh, đá ong nằm rải rác ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhất là ở các huyện: Tân Uyên, Thuận An, Dĩ An, thị xã Thủ Dầu Một.

Các nhà chuyên môn đã phát hiện ở vùng Đất Cuốc (huyện Tân Uyên) có một mỏ cao lanh lớn phân bố trên một phạm vi hơn 1km2, với trữ lượng lớn. Đất cao lanh ở đây được đánh giá là loại đất tốt, có thể sử dụng trong nghề gốm và làm các chất phụ gia cho việc sản xuất một số sản phẩm công nghiệp…

Định hướng phát triển

Định hướng phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2023

Quan điểm phát triển

Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2023 nhằm xây dựng Bình Dương thành một tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, toàn diện đảm bảo mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, xoá đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Tập trung khai thác lợi thế về vị trí địa lý, sự hợp tác của các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cực hạt nhân phát triển là thành phố Hồ Chí Minh để phát triển kinh tế – xã hội. Chủ động hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả kinh tế gắn với phát triển xã hội trên cơ sở đầu tư có trọng điểm; xây dựng mạng lưới kết cấu hạ tầng đồng bộ; phát triển công nghiệp gắn với phát triển đô thị và dịch vụ; phát triển kinh tế xã hội kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh vững mạnh trên địa bàn.

Mục tiêu phát triển

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ. Tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; chú trọng phát triển dịch vụ nhà ở, đào tạo phát triển nguồn nhân lực và chăm sóc sức khoẻ. Hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá và tạo ra sự phát triển cân đối, bền vững giai đoạn sau năm 2023;

Xây dựng Bình Dương thành một tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, toàn diện đảm bảo mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, xoá đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Các chỉ tiêu kinh tế cụ thể

– Cơ cấu kinh tế: phát triển và chuyển dịch theo hướng nâng cao tỷ trọng của các ngành công nghiệp, dịch vụ trong tổng GDP:

Năm 2010

Năm 2023

Năm 2023

Quy mô dân số (triệu người)

1,2

1,6

2,0

Thu nhập bình quân đầu người (triệu đồng/người giá so  sánh   năm 2005)

30

52

89,6

Thu nhập bình quân đầu người (USD/người quy ra USD theo giá so sánh năm 2005)

2.000

4.000

5.800

Cơ cấu kinh tế: nông, lâm, ngư nghiệp – công nghiệp – dịch vụ

4,5% -65,5% – 30%

3,4% – 62,9% – 33,7%

2,3% – 55,5% – 42,2%

– Cơ cấu lao động chuyển dịch cùng với cơ cấu kinh tế theo hướng giảm lao động làm việc trong các ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất, hiệu quả cao hơn:

Năm 2010

Năm 2023

Năm 2023

Ngành nông, lâm, ngư nghiệp

20%

14%

10%

Công nghiệp – xây dựng

45%

48%

45%

Dịch vụ

35%

38%

45%

-Tốc độ tăng trưởng bình quân của các ngành, lĩnh vực (%/năm):

2011 – 2023

2023 – 2023

2006 – 2023

GDP

14,9

13

14,3

Nông, lâm nghiệp, thủy sản

3,4

3,6

3,4

Công nghiệp, xây dựng

14,5

12,3

14,5

Dịch vụ

16,5

16,1

16,0

– Kim ngạch xuất – nhập khẩu (triệu USD):

Năm 2010

Năm 2023

Năm 2023

Kim ngạch xuất khẩu

8.662

14.000

25.000

Kim ngạch nhập khẩu

7.527

10.000

15.000

Tổng cộng

16.189

24.000

25.000

Khu liên hợp Công nghiệp – Dịch vụ – Đô thị với quy mô 4200 ha đang được xây dựng

Một số chỉ tiêu văn hóa – xã hội

Năm 2010

Năm 2023

Năm 2023

Tỷ lệ thất nghiệp

Dưới 4,4%

4,2%

4%

Lao động qua đào tạo

Trên 70%

Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng

Dưới 10%

Không còn

Tuổi thọ trung bình

75

77

80

Số cán bộ y tế (CBYT)/vạn dân

27 (có 8 bác sĩ)

38 (có 15 bác sĩ)

55 (có 30 bác sĩ)

Số trường trung học cơ sở ở mỗi xã, phường

Ít nhất 1

Mật độ điện thoại (số máy/100 dân)

42

50

60

Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa

– Tỷ lệ đô thị hoá đạt 40% năm 2010, tăng lên 50% năm 2023 và đạt 75% năm 2023. Dự báo, dân số đô thị năm 2010 là 480 nghìn người, năm 2023 là 1,5 triệu người. Phấn đấu đưa tỉnh Bình Dương trở thành đô thị loại I, trực thuộc Trung ương vào năm 2023. Không gian thành phố Bình Dương kết nối với thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Biên Hoà trở thành đại đô thị của cả nước.

– Năm 2023, dự kiến toàn Tỉnh có 31 khu công nghiệp với tổng diện tích 9.360,5 ha và 23 cụm công nghiệp với tổng diện tích 2.704 ha.

Kết cấu hạ tầng kỹ thuật

– Giao thông: Phát triển giao thông đường bộ theo hướng kết nối với hệ thống quốc lộ hiện đại tầm cỡ khu vực, với sân bay quốc tế và cụm cảng biển Thị Vải – Vũng Tàu và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khác. Tập trung phát triển các trục giao thông đường bộ từ đại lộ Bình Dương đi cửa khẩu Hoa Lư, từ đại lộ Bình Dương đi Đồng Xoài, từ đại lộ Bình Dương đi Dầu Tiếng, đường cao tốc Mỹ Phước – Tân Vạn. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông vận tải xây dựng các trục cắt ngang: Vành đai 3, Vành đai 4, đường Thường Tân – Tân Hưng – Hưng Hòa… Đối với giao thông đường thuỷ: tiếp tục nạo vét luồng lạch sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và sông Thị Tính; cải tạo, nâng cấp và xây dựng hệ thống cảng phục vụ vận chuyển, du lịch và dân sinh.

– Cấp điện, cấp nước: Đầu tư đồng bộ nâng cấp, xây mới hệ thống cấp điện, cấp nước đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, đặc biệt là ở các khu công nghiệp và đô thị tập trung. Tốc độ tăng trưởng điện năng tăng trung bình 24%/năm giai đoạn 2006 – 2010 và giảm xuống còn 13%/năm giai đoạn 2011- 2023. Tổng nhu cầu điện năng tiêu thụ 6.700 GWh đến năm 2010 và 12.400 GWh đến 2023. Thành phần phụ tải cho sản xuất và tiêu dùng khoảng 20% thời kỳ đến 2023 và 18% thời kỳ đến 2023. Thành phần phụ tải phục vụ phát triển các ngành dịch vụ khoảng 36% thời kỳ 2006 – 2023 và ổn định 30% thời kỳ sau 2023. Đến năm 2010, ngành nước phải xử lý 247.000 m3/ngày đêm và đến năm 2023 xử lý 462.000 m3/ngày đêm. Bảo đảm 95 – 97% hộ nông thôn được dùng điện và nước sạch năm 2010 và tỷ lệ này đạt 100% vào năm 2023.

– Thông tin liên lạc: Phát triển ngành bưu chính viễn thông hiện đại, đồng bộ theo tiêu chuẩn kỹ thuật số hoá và tự động hoá nhằm bảo đảm thông tin thông suốt toàn tỉnh, gắn kết với Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

(Theo Quyết định số 81/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ)

(Nguồn trích:

http://binhduong.gov.vn

)

Gửi phản hồi

In bài viết

Đầu trang

Quay trở về

CÁC TIN KHÁC

Hội Khoa Học Lịch Sử Bình Dương

Khoảng thế kỉ VII TCN, các vua Hùng đã dựng nên nhà nước đầu tiên trên lãnh thổ nước ta. Đó là nhà nước Văn Lang. Quốc hiệu Văn Lang có ý nghĩa như thế nào? Đó là câu hỏi mà mỗi người con đất Việt muốn tìm hiểu khi nhìn lại cội nguồn dân tộc.

Hiện tại, ít nhất có ba cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang:

Cách thứ nhất cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách Đới Kí của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là “Điêu Đề” cũng không ngoài ý nghĩa này (Điêu nghĩa là chạm, xăm; đề là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra lúc bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).

Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là cũng không ngoài ý nghĩa này ( nghĩa là chạm, xăm; là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra lúc bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).

Cách thứ hai cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích: hai chữ “tân lang” (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, “tân lang” là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của Văn Lang rất nhiều thế kỉ. Vì vậy, cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.

Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích: hai chữ (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của Văn Lang rất nhiều thế kỉ. Vì vậy, cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.

Cách thứ ba cho rằng: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành Ngữ âm học lịch sử. Theo đó thì:

Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành . Theo đó thì:

1. Văn là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người,…

2. Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm Hán – Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer).

Ghép lại, Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.

Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách thứ ba được củng cố thêm bởi kết quả của hàng loạt những cuộc khai quật khảo cổ dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Mã. Bởi lẽ này, cách giải thích thứ ba được nhiều người tán thành nhất.

(Theo Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam – Tập 1)