Ý Nghĩa Tên Văn Lang / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Eduviet.edu.vn

Ý Nghĩa Quốc Hiệu Văn Lang

Khoảng thế kỉ VII TCN, các vua Hùng đã dựng nên nhà nước đầu tiên trên lãnh thổ nước ta. Đó là nhà nước Văn Lang. Quốc hiệu Văn Lang có ý nghĩa như thế nào? Đó là câu hỏi mà mỗi người con đất Việt muốn tìm hiểu khi nhìn lại cội nguồn dân tộc.

Hiện tại, ít nhất có ba cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang:Cách thứ nhất cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách Đới Kí của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là “Điêu Đề” cũng không ngoài ý nghĩa này (Điêu nghĩa là chạm, xăm; đề là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra lúc bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán). Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là cũng không ngoài ý nghĩa này ( nghĩa là chạm, xăm; là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra lúc bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).

Cách thứ hai cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích: hai chữ “tân lang” (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, “tân lang” là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của Văn Lang rất nhiều thế kỉ. Vì vậy, cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.

Cách thứ ba cho rằng: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành Ngữ âm học lịch sử. Theo đó thì: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành. Theo đó thì: 1. Văn là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người,… 2. Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm Hán – Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer). Ghép lại, Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách thứ ba được củng cố thêm bởi kết quả của hàng loạt những cuộc khai quật khảo cổ dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Mã. Bởi lẽ này, cách giải thích thứ ba được nhiều người tán thành nhất.Theo Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam – Tập 1 Cách lập luận thứ 3 cũng không ổn lắmCó ai còn cách giải thích khách hay hơn không?Còn đây là bài viết của tôi – có bổ sung ý kiến của Thế Trung. Theo cái nhìn của tôi thì. a/ Danh từ ” Lang ” là một từ Việt tối cổ, có nhiều ý nghĩa: 1 – Người đàn ông, con trai / ” Con gái (Âm) gọi là ” Mỵ “, con trai (Dương) gọi là ” Lang”. Danh từ ” Ma mỵ” thường dùng trong ngôn ngữ Việt miêu tả một hiện trạng cực Âm. 2 – Lang/ lan (lan tỏa). Khoai lang là một loại thực vật có sự phát triển lan tỏa. Đồng âm với Lang/ lan Điều này phù hợp với ” a /1 ” : Âm co, Dương duỗi (Lan tỏa) 3 – Quan Lang/ Người đứng đầu tối cao của một địa phương. 4 – Lang/ Ông thày chữa bệnh Đông y. Các phim Tàu bây wờ dịch là ” Đại phu ” . Chính là người đàn ông lớn (Bổ sung của Thế Trung). b/ Danh từ ” Văn ” là văn hóa. Quốc hiệu Văn Lang chính là sự xác định những giá trị văn hóa tỏa sáng và phổ biến. Đây chính là danh xưng văn hiến của cội nguồn văn minh Việt tộc, đến nay trải gần 5000 năm lịch sử. ==================================== PS: Cách giải thích này không phủ hợp với tư duy cho rằng ” Ông cha ta ở trần đóng khố “. Tất nhiên họ sẽ không thừa nhận luận điểm của tôi.Và đó là chuyện của họ.

Dấu Tích Kinh Đô Văn Lang Xưa

Từ Nghĩa Lĩnh tới Bạch Hạc, thời đó Hùng Vương cho dựng 50 lâu đài, cung điện.

Nhiều ngọc phả thời tiền sử, sử sách và các nhà khoa học đã xác nhận vùng đất tụ thủy, tụ nhân này – vùng đất nằm gọn giữa ba dòng sông lớn: Sông Hồng, sông Lô, sông Đà, và ba trái núi thiêng: Núi Nghĩa Lĩnh, núi Ba Vì, núi Tam Đảo, chính là trung tâm của nhà nước Văn Lang xưa. Không chỉ vị thế đẹp mà đặc biệt, không có nơi nào lại dày đặc những địa danh, những di tích, những truyền thuyết về thời tiền sử, về thời đại nhà nước Văn Lang như ở Việt Trì. Việc tìm ra khu mộ táng và hàng loạt hiện vật khảo cổ ở di tích Làng Cả đã chứng minh từ thời Hùng Vương đã có một bộ phận dân cư đông đúc sống ở Việt Trì. Đó là căn cứ khoa học tin cậy.

Thiên Cổ miếu tại xã Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ.

Còn trong truyền thuyết, xã Trưng Vương (hay Lâu Thượng), xưa có Lâu Thượng là nơi Vua Hùng bàn việc với các lạc hầu, lạc tướng. Nơi này xưa có 12 lâu đài, cung điện. Xã Sông Lô (xưa là Lâu Hạ) là nơi ở của các Mỵ Nương. Các công chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa đã từng ở nơi này. Đây cũng là nơi trồng dâu, nuôi tằm, dệt cửi. Xã Dữu Lâu, nơi trồng trầu, dùng cho việc cưới xin và làm thuốc. Cách đây nửa thế kỷ, Dữu Lâu còn dày đặc các giàn trầu giống quý. Xã Phượng Lâu, xưa là nơi có Lầu Phượng (nơi ở của các vợ vua). Xã Vân Phú có địa danh Thậm Thình mà mỗi khi đi qua như còn được thấy: “Trăm cô gái tựa tiên sa/ Múa chày đôi với chày ba thậm thình/ Đêm đêm tiếng thậm, tiếng thình/ Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non”. Xã Thụy Vân xưa là khu vực quân sự của Hùng Vương.

Ở đây còn di tích bãi luyện quân, bãi tập võ và rừng Cấm – nơi nhà vua thường đi săn trong những ngày rảnh rỗi. Xã Minh Phương – Vân Cơ là nơi có hồ Thủy Quân, có đồi Mả Vương, rừng rước vua. Nông Trang là nơi có kho lương thực của các vua Hùng. Minh Nông, Gia Cẩm (xưa gọi là Kẻ Lú) là nơi Vua Hùng dạy dân cấy lúa. Tân Dân – nơi có Giếng Rùng, nhà vua đã từng rửa chân, có miếu Vũ thờ bà Vũ Thị Hiền, em dâu của Vua Hùng thứ nhất. Tiên Cát – nơi có đền thờ Thủy Tổ Quốc Mẫu – thân mẫu Vua Lạc Long Quân, có đồi Kén Rể, nơi đã diễn ra cuộc tranh tài của Sơn Tinh – Thủy Tinh. Thọ Sơn nơi có di chỉ làng Cả nổi tiếng thế giới, nơi chế tạo dụng cụ và vũ khí bằng đồng của các Vua Hùng. Thanh Miếu là nơi thờ tự của nhà vua, nơi ngày xưa có trường dạy học. Bến Gót có Hoa Long Tự, địa danh đã từng chứng kiến việc đặt tên cho 100 người con của Mẫu Âu Cơ. Bạch Hạc là nơi có thần Tam Giang, có đền Long Đài, nơi trấn giữ phía Đông Kinh đô Văn Lang của Đông Hải đại vương, hoàng tử thứ 25 của Vua Hùng thứ 18.

Trong mỗi làng xã, phố phường còn bao dấu tích địa danh và truyền thống về thời đại Hùng Vương. Kể không thể hết những câu chuyện về vua dạy dân cấy lúa ở Kẻ Lú, vua đi săn ở Thụy Vân, vua kén rể ở Tiên Cát.

Hai cây táu cổ ở đền Thiên Cổ (Việt Trì, Phú Thọ).

Trong hội thảo về kinh đô Văn Lang cuối năm 1994, một số nhà sử học, nhà nghiên cứu về văn hóa đã khẳng định: “Điều quan trọng là chỉ ở Việt Trì mới có sự phân bố khu vực của một đô thành: Nơi tập trung lâu đài cung điện, nơi cày cấy ruộng công, kho lương thực, nơi đóng quân…”. Cùng với nhận định đó, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh còn bổ sung: “Không những là trung tâm văn hóa chính trị của nước Văn Lang thời bấy giờ, nơi đây còn hình thành trung tâm của các nghề thủ công: Dệt vải, đan lát, đúc đồng, trạm khắc…”.

So với các cố đô khác như Cổ Loa, Hoa Lư, Thăng Long và Huế thì cố đô Văn Lang hầu như không còn lại gì, nó buồn và đẹp như những vần thơ của thi sĩ Nguyễn Ngô Đoan: Bay đâu cánh hạc năm xưa/Tìm đâu thấy bóng cố đô đất này.

Đúng là cố đô đã mất đi nhiều dấu tích, bởi ngoài yếu tố thời gian trải mấy nghìn năm, ngoài yếu tố khí hậu khắc nghiệt, Việt Trì – cố đô Văn Lang còn chịu nhiều tàn phá nặng nề của kẻ thù. Khi An Dương Vương rời đô về Hoa Lư, lâu đài cung điện nơi đây không còn người chăm sóc. Một số nhà yêu nước như tể tướng Lữ Gia, Hai Bà Trưng đã về đây dựa bóng tổ tiên để mưu đồ khôi phục độc lập dân tộc. Nhưng cuối cùng, các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Rồi dằng dặc hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Những cuộc chiến tranh liên tiếp trong cuộc chiến đấu chống quân Mông Cổ thế kỷ 13, cuộc thử lửa đầu tiên diễn ra ở hai bên bờ sông Việt Trì – Bạch Hạc.

Rất tiếc, trận ấy quân ta thất bại. Việt Trì rơi vào tay đội quân khét tiếng tàn bạo ấy. Gần hai thế kỷ sau, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ phong kiến nước ta, quân Minh rầm rộ kéo sang. Sử sách còn ghi: “Minh Vĩnh Lạc năm thứ tư ngày mồng 2 tháng 12 năm 1406, quân Minh chiếm được Việt Trì”. Chúng đã tàn sát đàn ông, hãm hiếp phụ nữ, kẹp cổ trẻ em dìm xuống nước. Chúng còn hối hả lùng bắt gái đẹp, thợ giỏi, các nhân tài và cướp phá hết sách vở, đồ đạc quý đem về nước. Khi chúng rút đi, Trung Tiên Cát, nơi có ngôi đền đá thờ Thủy Tổ Quốc Mẫu, chỉ còn lại có 8 gia đình.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vào thế kỷ 19, VIệt Trì cũng được chúng hết sức “quan tâm”. An Nam nhất thống chí còn ghi: Năm 1886 người Pháp phá Hoa Long Tự, đình Việt Trì và miếu công chúa Hoa Dung đưa vào thôn Bạc Nội lấy đất xây trại lính Pháp. Trong cuộc kháng chiến chín năm trường kỳ chống thực dân Pháp, vào năm 1949, ngôi đền thờ Thủy Tổ Nam Bang Kinh Dương Vương Lữ Á Lữ (Bắc Ninh) và ngôi đền thờ hoàng hậu của Người – Thủy tổ Quốc Mẫu ở Tiên Cát (Việt Trì) cũng bị tàn phá. Tháng 3 năm 1951, một tiểu đoàn lính lê dương tràn vào Lâu Thương giết hại dân lành và tàn phá đình chùa, đền miếu. Nhiều di tích ở Việt Trì đã bị phá tan hoang. Chưa kịp khôi phục, sửa chữa lại thì chiến tranh chống Mỹ, cứu nước diễn ra. Việt Trì lại trở thành mục tiêu bắn phá của kẻ thù.

Dù một số di tích bị mất đi, nhưng trên đất Việt Trì vẫn còn lưu giữ được nhiều dấu tích, những truyền thuyết, huyền thoại về thời dựng nước. Từ khi có Nghị quyết T.Ư 5 (khóa VIII) của Đảng đến nay, các giá trị văn hóa truyền thống đã được khôi phục, tôn tạo, giữ gìn và phát huy tác dụng, đã góp phần quan trọng vào việc chấn hưng văn hóa vùng đất Tổ cội nguồn – văn hóa dân tộc. Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân thành phố Việt Trì đã tập trung nhiều nguồn lực để thực thi có kết quả mục tiêu xây dựng thành phố lễ hội về với cội nguồn.

Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là lịch sử, mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng”. Cái lõi lịch sử hiện ra ngày một rõ. Việc đi tìm dấu tích kinh đô Văn Lang xưa đã hé mở nhiều bất ngờ, thú vị. Việc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa ở Việt Trì hôm nay không thể không tính đến yếu tố lịch sử văn hóa để phát triển; bởi dù có phát triển đến đâu thì “Việt Trì vẫn là kinh đô của nhà nước Văn Lang” như các nhà sử học tên tuổi của đất nước đã khẳng định”.

Nguyễn Hưng

390. Khảo Sát Tên Gọi Văn Lang Trên Cơ Sở Ngữ Âm Lịch Sử

Đại Việt Sử Lược hay Việt Sử Lược, một cuốn sử thời Trần chưa rõ tác giả có đoạn viết: “Đến đời Trang Vương nhà Chu, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật quy phục được các bộ lạc, dựng nước Văn Lang gồm 15 bộ (…), tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang,… truyền được 18 đời “.

Về tên gọi Văn Lang, học giả Pháp Henry Maspero (1918) cho rằng: tên nước Văn Lang là đọc nhầm tên nước Dạ Lang, một nước cổ ở Quí Châu. Ông đưa ra các luận cứ sau:

– Hai chữ Văn 文và chữ Dạ 夜giống nhau, dễ nhầm khi đọc hay chép. Vì thế, một sách thời Tống viết: “Phong Châu là nước Văn Lang xưa, ở đó có sông Văn Lãng”. Một sách khác cùng thời lại viết: “Phong Châu là đất Dạ Lang xưa, ở đó có sông Dạ Lang”.

– Lãnh thổ Dạ Lang, thời Hán phân thành hai quận Kiển Vi và Thương Ngô, một bên giáp nước Ba, một bên giáp hồ Động Đình. Do nhầm Dạ Lang thành Văn Lang, sử Việt Nam viết lãnh thổ Văn Lang giống như lãnh thổ Dạ Lang là “Bắc đến Hồ Động Đình, Tây giáp Ba Thục”.

– Tên Văn Lang trước không có nhưng bỗng xuất hiện vào thời Đường lại là do một nhầm lẫn khác. Lâm Ấp ký viết: “Ở phía Nam Chu Ngô, Nhật Nam có người Văn Lang, và sông Văn Lang”. Người chép lại Lâm Ấp ký sau viết Chu Ngô thành Thương Ngô, các nhà địa lý thời Đường cũng chép sai theo. Do Thương Ngô ở phía Bắc Giao Chỉ, nên coi Văn Lang là Giao Chỉ.

Nếu giả thuyết của Maspero đúng thì phải tìm hiểu ý nghĩa tên Văn Lang theo ý nghĩa của tên Dạ Lang, chúng tôi sẽ có một bài viết riêng về tên Dạ Lang sau.

Tác giả Tạ Đức trong “Nguồn Gốc Người Việt – Người Mường” (NXB Tri thức, 2013) dẫn ý kiến giải thích tên Văn Lang của nhiều học giả như sau:

– Steine (1947) đặt Văn Lang vào trong một hệ thống tộc danh, địa danh có từ Lang như Bạch Lang ở Tứ Xuyên, Việt Lang ở Quảng Đông, Dạ Lang ở Quí Châu. Ông cũng khẳng định: Hậu Hán Thư nói đến người Dạ Lang ở biên giới Cửu Chân; truyền thuyết Việt Nam kể về một nước nhỏ Dạ Lang bên bờ sông Mã; thời Hán có sông Dạ Lang thực sự ở Quảng Trị, sau là sông Hằng Giang. Điều đó có nghĩa, tên gọi Dạ Lang cũng xuất hiện ở những nơi không thể nhầm lẫn với Văn Lang.

– Bình Nguyên Lộc (1971) lại coi từ gốc của Văn Lang trong tiếng Mã Lai là pinang, phiên âm Hán – Việt là tân lang hay binh lang để chứng minh lang chỉ cây cau sọc, vật tổ của người Văn Lang và người Chăm.

– Trần Quốc Vượng (1973) lại coi từ gốc của cả Văn Lang và Mê Linh – kinh đô của nước Văn Lang thời Hai Bà Trưng là Mlang, từ chỉ chim ưng, đại bàng, vật tổ của người Lạc Việt.

– Theo Tạ Đức thì hai cách lý giải của Stein và Hoàng Thị Châu đã đi đúng hướng và có cơ sở ngôn ngữ học, và cuối cùng Tạ Đức đưa ra ý kiến: “cách lý giải thật sự thỏa đáng phải là: tên nước Văn Lang và Dạ Lang có gốc từ tên tộc người Văn Lang và Dạ Lang. Tên tộc người Văn Lang và Dạ Lang lại có gốc từ các từ chỉ Người tương ứng với lang/orang/yang”. Tiếp sau đó Tạ Đức có đưa ra nhiều lập luận về ngữ âm ví dụ: “Lạc Việt có gốc Ya Ya, Ya Ya lại tương ứng với Ya Yang và Ya Yang có thể phiên âm thành Văn Lang” hoặc “… tên nước Dạ Lang cũng được xác định có gốc Jialang, một biến thể của Zina – tên tự gọi của người Lô Lô, trong đó Jialang tương ứng với Ya Yang, còn Zina tương ứng với Lô Lô = Lava = Ya Ya = Lạc Việt (Phụ lục 6 D). Về mặt ngữ âm, đúng là Văn Lang có thể có gốc Blang. Hiện Blang vẫn là tên một tộc người ở Vân Nam có quan hệ ngôn ngữ – tộc người gần gũi với người Va, tức Lava = Lạc Việt”.

2. Khái quát về ngữ âm lịch sử:

Các tên Văn Lang, Dạ Lang, Lạc Việt … là những tên gọi được ghi chép bằng chữ Hán, và ứng với giai đoạn lịch sử trước thời Tần, để tìm hiểu ý nghĩa của chúng trước hết cần phải khôi phục đúng ngữ âm các chữ Hán đó trước thời Tần sau đó đối chiếu với các ngôn ngữ bản địa là Nam Á, Thái-Kadai hay Nam Đảo để tìm ý nghĩa các tên gọi cổ đó… Chứ không thể dựa vào âm đọc hiện đại mà suy đoán quy nạp tùy tiện được, chẳng hạn Tạ Đức cho rằng nước La (羅) tức là Lạc (洛/雒/駱) là dựa vào âm cận hiện đại của các chữ này đều là “luo”, nhưng theo Vương Lực thì âm Thượng cổ Hán ngữ của La là *lai còn của Lạc là *lak, âm cuối rất khác nhau chứ không phải đồng âm “lo” như trong Quan Thoại hiện nay, vì vậy ý kiến la = lạc có vẻ thiếu cơ sở ngữ âm lịch sử.

Hiện nay giới ngôn ngữ học phân định âm Thượng cổ Hán ngữ là âm Hán ngữ khoảng đời Hán về trước, còn Trung cổ Hán ngữ là ngữ âm khoảng đời Tùy – Đường – Tống, nói một cách đại khái thì âm Thượng cổ Hán ngữ là âm thời Chu, còn Trung cổ Hán ngữ là âm thời Đường. Âm Trung cổ Hán ngữ hiện được bảo lưu tương đối trọn vẹn trong hệ thống âm Hán Việt của người Việt (theo GS Nguyễn Tài Cẩn) nên việc phục nguyên âm này có thể là khó với người Trung Quốc nhưng đối với người Việt lại không phải là vấn đề cần đặt ra, còn âm Thượng cổ Hán ngữ là âm mà chúng ta cần vận dụng thì hiện nay đã có nhiều công trình phục nguyên của các tác giả như Karlgren, Lí Phương Quế, Vương Lực, Baxter, Trịnh Trương Thượng Phương, Phan Ngộ Vân, Schuessler ,v.v… Thực ra các dữ liệu âm phục nguyên cũng không hẳn là chính xác, vì ngay trong nội bộ Hán ngữ cũng có nhiều phương ngữ âm đọc của các chữ Hán khác nhau đến mức không hiểu được nhau như tiếng Quảng Đông so với tiếng Bắc Kinh, mà trong từng phương ngữ thì cùng một chữ một nghĩa cũng có thể có nhiều âm đọc (ví dụ âm Hán Việt có thể đọc chính hay chánh, nhất ngay nhứt đều được), chưa kể sự biến đổi ngữ âm nội tại theo thời gian cũng khó phân định chính xác, sai số có thể đến vài thế kỷ hay thậm chí hơn 500 năm. Đối với giai đoạn giao thời giữa Thượng cổ Hán ngữ và Trung cổ Hán ngữ, là khoảng cuối đời Hán qua đời Tấn, thì việc khôi phục sẽ phải cân nhắc chọn giữa âm Thượng cổ hay âm Trung cổ.

So sánh âm Trung cổ với âm Thượng cổ Hán ngữ thì có một số biến đổi ngữ âm khá cơ bản mà những người mới tìm hiểu về ngữ âm lịch sử nên nhớ để tiện áp dụng, các biến đổi này đôi khi có thể nhận thấy khá rõ dựa vào lớp từ cổ Hán Việt (đúng ra là cổ Việt Hán, ký hiệu CVH) của tiếng Việt:

– Các tổ hợp phụ âm đầu phức có -r- đến cuối thời Hán đã rụng hết -r- hoặc chuyển hết thành l – (theo GS Nguyễn Tài Cẩn, như long<=rồng, ly<=rời CVH).

– Nhóm phụ âm đầu đ-, d- trung cổ nhiều trường hợp phục nguyên về l- thượng cổ (như đạo<=lúa, đà<=lái CVH).

– Phụ âm đầu ph- trung cổ ứng với -b thượng cổ (như phật<=bụt, phủ<=búa CVH).

– Nguyên âm -a đơn (vận mẫu ca 歌) thời trung cổ thì thời thượng cổ là âm phức có âm cuối -r, -j, -i, -l (như la<=lải, lưới, cá<=cái CVH)

– Nguyên âm -u (vận mẫu ngu 虞) thời trung cổ thì thời thượng cổ là âm phức có âm cuối “o” hay “a” (như phủ<=búa, vụ<=mùa CVH)

v.v…

3. Phục nguyên tên Văn Lang

1. Chữ Hán Văn: 文, thanh mẫu vi: 微, vận mẫu văn: 文, bình thanh: 平, hợp khẩu: 合, nhiếp trăn: 臻, tam đẳng: 三等, thiết âm vô phân: 無分

Phục nguyên âm thượng cổ: Karlgren: *mi ̯wən Lí Phương Quế: *mjən Vương Lực: *miən Baxter: *mjən Trịnh Trương Thượng Phương: *mɯn Phan Ngộ Vân: *mɯn

“Văn” cũng là chữ đệm cực kỳ phổ thông trong tên họ đàn ông người Việt, nó chính ra có nghĩa là “ông”, là “ngài”, mà “ngài” là cổ âm của “người” (mun/mon) chứ không phải là “văn chương” hay “văn vẻ” gì cả, nhưng có lẽ do cái nghĩa đồng âm này cũng hay nên nó thành phổ biến chăng ?

Phục nguyên Văn 文là “mun/mon” khớp với ý kiến Tạ Đức đã nêu rằng tên nước thường dẫn xuất từ các từ chỉ “người” trong bản ngữ của dân tộc chủ thể nước đó .

2. Chữ Hán Lang: 郎, thanh mẫu lai: 來, vận mẫu đường: 唐, bình thanh: 平, khai khẩu: 开, nhiếp đãng: 宕, nhất đẳng: 一等, thiết âm lỗ đang: 魯當

Phục nguyên âm thượng cổ:

Karlgren: *lɑŋ

Lí Phương Quế: *laŋ

Vương Lực: *laŋ

Baxter: *c-raŋ

Trịnh Trương Thượng Phương: *raaŋ

Phan Ngộ Vân: *raaŋ

Như vậy từ này là một từ ít biến đổi, vẫn giữ âm “lang” từ hàng nghìn năm nay vì từ r- sang l- chỉ là một biến đổi nhỏ và là quy luật phổ thông ở Hán Ngữ. Chúng tôi cũng thống nhất ý kiến như Tạ Đức, Hoàng Thị Châu phục nguyên từ này trong ngôn ngữ Việt-Mường là “lang/chàng” tức cũng là từ chỉ người, nhưng nghĩa hẹp hơn từ mun/mon một chút, dùng chỉ riêng đàn ông hoặc kẻ quý tộc, hay vua quan (các nghĩa sau có lẽ phát sinh rất muộn, khi xã hội đã phát triển, có sự phân chia giai cấp).

Có mối liên hệ giữa lang và yang (giàng, trời trong một số ngôn ngữ Nam Á cổ) và cả từ dương chỉ mặt trời trong Hán ngữ, thật vậy phục nguyên âm thượng cổ Hán ngữ của các chữ dương 陽và 楊:

(Lưu ý phục nguyên của Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân trùng chính xác với âm “lang” của chữ “lang 郎”).

3. Xét nghĩa toàn bộ từ “Văn Lang” :

Từ phục nguyên trên chúng ta có tên “Mun Lang” trong đó cả hai chữ đều có gốc là từ chỉ người tuy nhiên như vậy thì ý nghĩa trùng lặp không hay lắm, cách hiểu phù hợp hơn và thuận cú pháp tiếng Việt – Mường là: Mun là từ chỉ vùng đất cư trú tức “nước”, cũng tức là “Mường”, chữ sau mới là từ chỉ tộc danh và tên nước. Vậy nghĩa chốt lại là “Mường Lang”, từ này lại có thể hiểu theo hai nghĩa không phủ định nhau:

– Một là “mường của Lang” tức mường của vua, của nhóm tộc lãnh đạo một liên minh bộ lạc (quan điểm của giới khoa học hiện đại vẫn chỉ coi Văn Lang là một nhà nước sơ khai, một hình thức liên minh bộ lạc). Nghĩa này khớp với Đại Việt Sử Lược viết Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang dẫn ở trên.

– Hai là “mường của người Lang”, người Lang là giống người gì thì xin đọc tiếp phần dưới.

3. Phục nguyên chữ Kinh 京trong tên “người Kinh”

Luận điểm ưa thích của rất nhiều nhà nghiên cứu coi chữ “Kinh” trong tên người Kinh vốn xuất phát từ tên đất “Kinh 荊” tức vùng Hồ Bắc là vùng đất chính của nước Sở 楚thời Chu nên cũng gọi là “Kinh Sở” (thực ra nước Sở sau này mở rộng khỏi phạm vi đất Kinh rất nhiều). Đất Kinh bao gồm cả vùng hồ Động Đình ở Hồ Nam là đất cội nguồn của người Việt (người Kinh) trong truyền thuyết, nên giả thuyết trên quả thực rất hấp dẫn. Cả tên họ của vua Sở là họ “Hùng” và họ “Mị” cũng phù hợp với các danh xưng Hùng Vương (Vua Hùng), Mị Nương (Mệ Nàng, con gái vua Hùng) trong truyền thuyết của người Việt.

Tuy nghiên bám sát mặt chữ Hán thì chữ Kinh trong tên người Kinh 京(nghĩa là kinh đô) lại khác với chữ Kinh trong tên đất Kinh 荊(nghĩa là gai góc), cổ âm của chúng không thực sự đồng nhất như cách đọc hiện tại “kinh” ở tiếng Việt hay “jing” ở tiếng Hoa.

Phục nguyên chữ kinh 荊(gai)

Phục nguyên chữ kinh 京(kinh đô)

Hãy chú ý đến phục nguyên của hai tác giả Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân, một chữ có âm đầu đơn k-, một chữ có âm đầu là tổ hợp có -r- (kr-), mà các tổ hợp có -r- thì nhiều trường hợp chuyển thành l- sau đời Hán như vậy chữ 京trong tên người Kinh có thể đọc ra “laŋ” tức Lang.

Một chứng cứ nữa nằm ngay trong hệ thống cấu tạo chữ Hán, đó là chữ kinh 京được dùng làm bộ phận biểu âm cho chữ lương 涼(nghĩa là mát lạnh), chú ý vần ang/ương rất dễ chuyển hóa cho nhau như ở các cặp từ đàng/đường, đang/đương, nàng/nường, tràng/trường .v.v.

4. Tên Văn Lang trong thư tịch cổ Trung Quốc.

Trong từ điển Việt Bồ La của A.D.Rhodes (1651) cũng có tên “người Lương”, ban đầu có lẽ dùng chỉ những người Kinh không theo đạo Gia Tô, về sau chỉ chung những người không theo tôn giáo nào, chỉ thờ cúng tổ tiên như thời thượng cổ. Khả năng tên “Lương” này vốn đã có từ rất xa xưa chứ không phải do các giáo sĩ phương Tây tùy tiện đặt ra, vì cho đến thời cận đại khi khai lý lịch người ta vẫn dùng chữ “Lương” để khai là không theo tôn giáo nào, mà “người Lương” vốn rất kỳ thị bên Công giáo, khó có chuyện mượn từ của bên Công giáo đặt ra.

Như vậy “người Kinh” cũng là “người Lang” hay “người Lương”, còn tên “Văn Lang” có cả nghĩa “Người Kinh” hay “Mường Kinh” ? Nếu lập luận của người viết đúng thì đây quả thực là một phát hiện rất thú vị.

Tạm dịch: Phương Dư chí viết: Phong Châu tức quận Thừa Hóa. Xưa là nước Văn Lang, có sông Văn Lang. Cũng là đất Lục Lương. Thời Tần thuộc Tượng quận. Tây Hán và Đông Hán thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Ngô chia ra xếp vào quận Tân Hưng. Tấn đổi thành Tân Xương. Nhà Trần (557-589) gọi là Hưng Châu. Tùy thay Trần, cải ra Phong Châu; từ những năm đầu Tùy Dạng Đế (604-618) thì bãi bỏ. Đường triều khôi phục đặt là Phong Châu. Lâm Ấp Ký viết: Phía nam Thương Ngô có người Văn Lang hoang dã, sống không cần nhà cửa, dựa vào cây cổ thụ làm chỗ nghỉ ngơi, ăn thịt sống, lấy việc tìm hái hương liệu mưu sinh, trao đổi với người dưới xuôi, giống như thời tối cổ.

Không phải Đại Việt Sử Lược đời Trần là sách đầu tiên đề cập tên Văn Lang, mà tên này đã có trong các thư tịch sớm hơn của Trung Quốc.

Sách 太平御覽Thái Bình Ngự Lãm, Bắc Tống (977 – 984). Chương Châu quận bộ thập bát 州郡部十八. Đoạn Lĩnh Nam Đạo 嶺南道. Nguyên văn: 《方輿志》曰:峰州,承化郡。古文郎國,有文郎水。亦陸梁地。秦屬象郡。二漢屬交趾郡。吳分置新興郡。晉改為新昌。陳置興州。隋平陳,改為峰州;煬帝初,廢。唐復置峰州。林邑記:蒼梧以南有文郎野人,居無室宅,依樹止宿,食生肉,采香為業,與人交易,若上皇之人。

Xưa nay cụm từ 亦陸梁地(diệc Lục Lương địa) thường được diễn dịch là “cũng là xứ sở phóng túng hoành hành”, dựa theo nghĩa từ lục lương 陸梁là “hung cường”, thường để chỉ “giặc cỏ”. Sử ký của Tư Mã Thiên phần Tần Thủy Hoàng bản kỷ viết :

“略取 陆梁地为桂林、象郡、南海”。 司马贞《 史记索隐 》:”谓南方之人,其性陆梁,故曰陆梁

Lược thủ Lục Lương địa vi Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải. Tư Mã Trinh trong “Sử Ký Sách ẩn” viết vị nam phương chi nhân, kì tính lục lương, cố viết lục lương.

( … Chiếm đất Lục Lương đặt làm các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải. Tư Mã Trinh trong “Sử Ký sách ẩn” chú giải rằng lục lương là chỉ giống người phương nam, do tính “hung cường”, nên gọi là Lục Lương) .

Theo người viết thì cách giải thích của sách vở Trung Quốc là xuyên tạc đầy ác ý. Nếu xét ngữ âm lịch sử thì chữ lục 陸có phục nguyên âm thượng cổ như sau

Karlgren: *li ̯ʊk Lí Phương Quế: *ljəkw

Vương Lực: *liuk Baxter: *c-rjuk Trịnh Trương Thượng Phương: *m·rug Phan Ngộ Vân: *mrug

Hãy chú ý phục nguyên của Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân *mrug có âm đầu là mr- còn âm cuối -g nếu đọc vang thì sẽ chuyển ra -ng tức là có thể ghi âm mrung. Trong quá trình tiêu biến của giới âm rung -r-, diễn ra khoảng đầu thời Hán tức thời Tư Mã Thiên viết Sử Ký, nó có thể chuyển hóa ra -i- hay -j- tức âm là mjung, khả năng mjung cũng là một dạng ghi âm chữ “mường”.

Vậy Lục Lương tức Mường Lương, cũng chính là Văn Lang như chúng tôi đã phục nguyên ở đoạn trên. Câu văn của Tư Mã Thiên như vậy phải dịch là Chiếm đất Văn Lang đặt làm quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải.

Nếu đúng Lục Lương là một dạng ghi âm sớm của “Văn Lang” thì sách cổ nhất đề cập đến “Văn Lang” chính là Sử Ký của Tư Mã Thiên, một tài liệu rất có uy tín, cách không xa thời Văn Lang lắm (Tư Mã Thiên sinh năm 145 TCN cách năm nước Văn Lang mất 257TCN – theo Toàn Thư khoảng hơn 1 thế kỷ, còn nếu tính lại năm nước Văn Lang mất là 210TCN – theo các học giả hiện nay thì chỉ cách 65 năm)

Chú ý Lâm Ấp ký đã được dẫn trong Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên 郦道元(?-527) thời Nam Bắc Triều, nên có lẽ nó phải có từ thời Tấn tức là tên Văn Lang xuất hiện khá sớm chứ không phải đến thời Tống mới có, chưa kể khả năng chữ tên Văn Lang vốn được lưu truyền trong sách vở của người Việt từ trước đó nữa… độc lập với chữ Lục Lương do người Hán phiên âm.

Chiến Quốc sách viết về Ngô Khởi (440TCN-381TCN):

南攻楊越,北並陳、蔡V … (Nam đánh Dương Việt , bắc thôn tính Trần, Sái …). Do các nước Ngô – Việt ở vùng hạ lưu cửa sông Trường Giang là ở phía đông nước Sở nên Dương Việt không thể là vùng Ngô – Việt, mà phía Nam của Sở phải hiểu là vùng Hồ Nam thuộc cương vực nước Văn Lang theo sử Việt, chính người Trung Quốc cũng thừa nhận vùng này là đất Lạc Việt cổ. Chú ý Chiến Quốc Sách chỉ viết “công” (đánh) Dương Việt chứ không dùng chữ “tính” (thôn tính) như với hai nước Trần, Sái, phù hợp thực tế là Văn Lang tuy đã bị mất vùng Hồ Nam nhưng vẫn còn rất rộng, chưa bị tiêu diệt. Từ thời Ngô Khởi nước Sở đã trở nên rất hùng mạnh, sau thời Ngô Khởi gần 50 năm đã diệt nước Việt (khi đó đã gồm cả Ngô) vào năm 334TCN, mở rộng bờ cõi ra tận bờ biển. Chú ý khi đó nước Sở đã chiếm hết vùng lưu vực Trường Giang rộng lớn nhưng vẫn không thôn tính được Dương (Lang) Việt, như vậy dân Văn Lang xem ra cũng “lục lương” và hùng mạnh chứ không phải là một nước nhỏ và yếu.

Sử Ký của Tư Mã Thiên viết 秦時已并天下,略定楊越,置桂林、南海、象郡(thời Tần thôn tính thiên hạ, lược định Dương Việt đặt làm các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận) . Theo nội dung câu văn thì Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận là đất Dương Việt tức Lang Việt hay Văn Lang. Các thư tịch Trung Quốc về sau chú giải Tượng Quận thời Tần là gồm cả Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, tức cho là Tần đã chiếm được hết đất Văn Lang khi đó (không kể vùng Hồ Nam tức quận Trường Sa đã mất từ trước vào tay Sở). Nhưng đây là kiểu nói nhận vơ, thực tế Tần chưa chiếm được vùng trung tâm Văn Lang, khi đó đã đổi tên là Âu Lạc, tức là đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, nơi có kinh đô Cổ Loa của An Dương Vương, mà ngược lại 30 vạn quân Tần cùng với chủ tướng Đồ Thư đã bị tiêu diệt khi đánh vào đất Tượng quận… chữ “lược định” mà Tư Mã Thiên dùng, có thể dịch gọn là “bình định”, nhưng thực ra “lược” còn có thể hiểu là “sơ lược” tức mới bình định sơ qua chứ chưa phải là đã thôn tính được hết đất Dương/Lang Việt. Nhiều sử sách sau thời Sử Ký cũng lặp lại thông tin trên.

Trong phần Hóa thực liệt truyện, Tư Mã Thiên còn viết:

“九疑、蒼梧以南至儋耳者,與江南大同俗,而楊越多焉。” (Từ Cửu Nghi, Thương Ngô về phía nam tới Đam Nhĩ, phong tục đại để giống vùng Giang Nam, mà đa số là dân “Lang Việt”). Thông tin này rất quan trọng xác định dân vùng ven biển Lưỡng Quảng đa số là người “Lang Việt”, có truyền thống văn hóa không thua kém chi vùng Hoa Nam.

Phần”Tự tự” của Thái Sử Công (Tư mã Thiên tự viết bài tựa sách Sử Ký) viết như sau:

“漢既平中國,而佗能集楊越以保南藩,納貢職。作南越列傳第五十三” (Nhà Hán đã bình được Trung quốc, mà Triệu Đà biết chiêu tập được bọn Dương Việt để bảo vệ bờ cõi phía Nam, chịu nạp cống lễ. Nên ta viết thành quyển thứ 53 “Nam Việt Liệt Truyện”). Theo nội dung này thì phải hiểu nước Nam Việt của Triệu Đà là thu gộp các vùng đất Lang Việt, tức Văn Lang theo sử Việt.

Trong sách Phương Ngôn của Dương Hùng đời Tây Hán cũng có hai lần đề cập tên Dương Việt, nhưng dùng chữ dương bộ thủ 揚, điều này cho thấy đây là tên phiên âm, chỉ lấy âm chứ không lấy nghĩa, trích một ví dụ: 癡,騃也。揚越之郊凡人相侮以為無知謂之眲。眲,耳目不相信也。或謂之斫 (si, ngãi dã, Dương Việt chi Giao phàm nhân tương vũ dĩ vi vô tri vị chi nạch, nạch: nhĩ mục bất tương tín dã hoặc vị chi chước – Si là lẩn thẩn, người Dương Việt ở đất Giao gọi những kẻ lơ ngơ chả biết gì là “nạch”, ý là tai mắt chả biết nhìn nhận chi, hoặc còn gọi là “chước”), ở đây hãy chú ý thông tin nói Dương(Lang) Việt là ở đất Giao (tức Giao Chỉ hay Giao Châu, là tên của vùng đất Văn Lang khi nhà Hán đã đặt thành châu quận), thông tin này tái khẳng định “Lang Việt” cũng là Văn Lang, là Giao Châu.

Chú ý thêm là họ của Thi Sách, chồng của bà Trưng Trắc theo nhiều tư liệu thần tích là họ Dương 楊, mà Thi Sách là dòng dõi Lạc Tướng huyện Chu Diên nên khả năng họ đó chính ra phải đọc là Lang theo tiếng Việt Mường, Lang tức là chủ của một vùng đất (mường) của người Việt Mường. Các hoàng tử con vua Hùng đều gọi là Lang như Lang Liêu, Linh Lang … Việc lấy chức tước hay tên đất phong làm họ là khá thông thường thời xưa…

嶺南道:《方輿志》曰:安南府,今理宋平縣。古越地,《禹貢》揚州之地,號為百越。在周為越裳重譯之地。秦屬象郡。漢為交趾、日南二郡界,后漢因之。唐為交州。 Lĩnh Nam đạo : 《Phương dư chí 》viết :An Nam phủ, kim lí Tống Bình huyện. Cổ Việt địa, 《Vũ cống 》Dương Châu chi địa, hiệu vi Bách Việt. Tại Chu vi Việt Thường trùng dịch chi địa. Tần thuộc Tượng quận. Hán vi Giao Chỉ, Nhật Nam nhị quận giới, hậu Hán nhân chi. Đường vi Giao châu.

Theo nội dung trên thì trước thời Chu vùng đất từ Giao Chỉ đến Nhật Nam cũng được người Trung Quốc coi là đất Việt Thường, nhưng đó chỉ là một phần nhỏ ở phía Nam của nước Văn Lang theo sử Việt, đến trước đời Tần thì Văn Lang đã bị mất phần phía bắc dãy Ngũ Lĩnh nên “bộ Việt Thường” cũng co lại, chỉ còn là một phần nhỏ ở phía Nam Cửu Chân, khoảng Hà Tĩnh ngày nay.

Phục nguyên âm chữ thường 裳:

So sánh thấy khá giống phục nguyên âm chữ tượng象:

Tiếng Việt có từ “to tổ chảng”, chảng tức là con voi, âm chảng khá gần âm phục nguyên của chữ Tượng 象theo Baxter là *zjaŋ. Vì vậy Việt Thường có thể là “Việt Tượng”, “Việt Chảng” (Việt Voi), đây là tên đặt thuận theo cú pháp tiếng Việt chứ không theo cú pháp Hán là “Thường Việt” hay “Tượng Việt”. Tên này phù hợp với truyền thống sử dụng voi trong chiến đấu, trong sản xuất và cả trong các lễ hội của người Việt. Vùng có nhiều voi là vùng từ Giao Chỉ kéo dài xuống tận Nhật Nam, tức Tượng Quận thời Tần mà Thái Bình Ngự Lãm đã viết, vì vậy việc vùng đất này có tên “Việt Chảng” , “Việt Voi” theo tiếng Việt hay Tượng Quận theo Hán ngữ xem ra cũng có lý.

“Theo Meacham (1996:93): tên Dương Việt vào cuối thời Tây Chu (thế kỷ 8 TCN) còn thấy ở vùng trung lưu Dương Tử (vùng hồ Động Đình), nhưng đến cuối thời Chiến Quốc (thế kỷ 3 TCN) lại thấy ở Nam nước Sở (Nam Hồ Nam), đến thời Tần- Hán thì thấy ở Quảng Đông và tận Quế Lâm, Quảng Tây. Sự di chuyển của tên gọi Dương Việt đó đã phản ánh sự thiên di liên tục về phía Nam của người Việt Thường dưới sức ép bành trướng của Sở xuống Hồ Nam, mạnh nhất vào thế kỷ 5 TCN. Dương Việt chính là một tên gọi khác của Việt Thường cũng như của các tên gọi Thương Ngô và Tường Kha…”. Nhận định này phù hợp với việc lãnh thổ Văn Lang (Dương Việt, Lang Việt) bị Sở xâm lấn, biên giới dịch chuyển dần về phía Nam.

1. Phục nguyên âm thượng cổ Hán ngữ ở trang web của Đại học Thượng Hải http://www.eastling.org/oc/oldage.aspx có bản sao ở trang http://fanzung.com/?page_id=445

2.中上古汉语音的纲要, 高本汉, 齐鲁书社, 济南. 1987.

3. A Handbook of Old Chinese PhonologyGS William Baxter (1992, New York, Berlin).

4. 古漢語字典, Vương Lực, Cổ Hán ngữ tự điển.

5. Etymological_Dictionaryof old Chinese, Axel Schuessler, 2007 University of Hawai’i Press.

6. Từ điển Mường Việt . Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành, NXB Văn hóa dân tộc. 2002

7. Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nguyễn Tài Cẩn, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 1995

8. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2000

9. Nguồn gốc người Việt – người Mường. Tạ Đức . NXB Tri Thức 2013.

Soạn Bài: Ý Nghĩa Văn Chương

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Hoài Thanh (1909 – 1982), quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông là nhà phê bình văn học xuất sắc. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942.

2. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là hình ảnh của sự sống muôn hình vạn trạng và văn chương sáng tạo ra sự sống, gây những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có. Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất nghèo nàn.

3. Bài văn của Hoài Thanh có lối lập luận chặt chẽ, vừa giàu cảm xúc vừa có hình ảnh.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Theo Hoài Thanh, nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài.

2. Hoài Thanh viết : “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”.

Văn chương là hình ảnh của cuộc sống đa dạng và phong phú. Văn chương phản ánh cuộc sống. Cuộc sống đa dạng cho nên hình ảnh được phản ánh trong văn chương cũng đa dạng. Qua văn chương, ta biết được cuộc sống, mơ ước của người Việt Nam xưa kia, ta cũng biết cuộc sống của các dân tộc khác trên thế giới.

Văn chương còn sáng tạo ra sự sống. Qua tác phẩm văn chương, ta biết một cuộc sống trong mơ ước của con người. Đó là ước mơ con người có sức mạnh, lớn nhanh như Phù Đổng để đánh giặc; con người có sức mạnh để chống thiên tai lũ lụt như Sơn Tinh ; con người có khả năng kì diệu như Mã Lương sáng tạo ra vật dụng và phương tiện trừng trị kẻ thù.

3. Theo Hoài Thanh, công dụng của văn chương là giúp cho con người có tình cảm và gợi lòng vị tha. Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tĩnh cảm ta sẵn có. Văn chương luyện những tình cảm gia đình, anh em, bè bạn, tình yêu quê hương, đất nước. Văn chương gây cho ta tình cảm vị tha, tình cảm với những người tốt, người cùng chí hướng, những người lao động trong cộng đồng và trên thế giới nói chung. Ví dụ đọc truyện Cây bút thần, ta yêu mến nhân vật Mã Lương, căm ghét tên địa chủ và tên vua tham lam.

4. a) Văn bản Ý nghĩa văn chương thuộc loại văn nghị luận văn chương, vì nội dung bàn đến là ý nghĩa, công dụng của văn chương.

b) Bài văn có nét đặc sắc về nghệ thuật là vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc và hình ảnh. Ví dụ đoạn mở đầu, hay đoạn nói về mãnh lực của văn chương.

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP