Xu Hướng 12/2023 # Ý Nghĩa Lễ Hội Yên Tử # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Ý Nghĩa Lễ Hội Yên Tử được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đây là câu ca dao nổi tiếng nói về vùng đất linh thiêng với cảnh sắc thiên nhiên đẹp huyền bí Yên Tử, Quảng Ninh. Và hằng năm, mỗi dịp xuân về là du khách thập phương lại nô nức rủ nhau đến với cõi tiên thanh bình, trong lành này để cầu may và thưởng ngoạn cảnh đẹp, hòa vào không khí lễ hội Yên Tử rộn ràng và ý nghĩa.

Lễ hội Yên Tử – Quảng Ninh

Du khách đến Yên Tử để du xuân, để thưởng ngoạn cảnh đẹp, hít thở không khí trong lành, tìm đến mảnh đất thanh bình, tĩnh lặng hay để khám phá, chinh phục hay lẽ đơn thuần là lễ Phật, cầu may.

Trên hành trình chuyến du lịch Yên Tử, du khách chốc chốc lại gặp ngôi chùa, ngọn tháp, con suối, rừng cây, mỗi nơi lại mang một câu chuyện cổ tích mang đậm tính nhân văn, về tình thương, đoàn kết của con người. Và khi lên đỉnh cao có chùa Đồng, giữa trời xanh, lòng lại bâng khuâng, dịu êm, như đang lơ lửng trên tầng mây, trong cảnh bồng lai tiên cảnh.

Là một điểm du lịch nổi tiếng mang giá trị nhân văn, tinh hoa dân tộc, Yên Tử thu hút du khách trong nước và du khách nước ngoài. Đặc biệt là vào du lịch mùa lễ hội xuân, lượng du khách kéo về tụ hội đông đảo.

Diễn ra tại vùng núi Yên Tử, thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, lễ hội Yên Tử mang ý nghĩa lớn lao, là trung tâm của Phật Giáo, là nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm và với hoạt động lễ hội diễn ra, để du khách đến yên Tử có thể hòa vào thế giới Phật, thoát khỏi thế giới trần tục, một cuộc hành hương ý nghĩa về một nét văn hóa dân tộc độc đáo và bên cạnh đó là giới thiệu về cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên tươi đẹp tại Việt Nam.

Du lịch lễ hội Yên Tử bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng tới hết 3 tháng mùa xuân, lễ hội diễn ra với nhiều hoạt động như: Lễ dâng hương cúng Phật, bái Tổ Trúc Lâm, Văn nghệ diễn xướng tái hiện sự tích lịch sử, Văn hóa tâm linh, Những huyền thoại về Tam Tổ Thiền phái Trúc Lâm tôn kính, Lễ khai ấn “Dấu Thiêng Chùa Đồng”, múa Rồng Lân, võ thuật cổ truyền, trò chơi dân gian…

Yên Tử trải qua hơn 1000 năm lịch sử, với những công trình kiến trúc đa dạng như chùa, tháp, am và những di vật cổ quý giá xưa thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn vẫn còn được lưu giữ đã tạo nên một giá trị lịch sử lớn lao. Và Yên Tử trở thành một bảo tàng văn hóa kiến trúc, động thực vật phong phú, mang đậm đà bản sắc dân tộc việt Nam.

Chính vì vậy, lễ hội Yên Tử mang ý nghĩa linh thiêng, cao cả, là dịp mọi du khách thập phương đến và cảm nhận một nét đẹp hòa quyện giữa lịch sử và thiên nhiên đẹp bí ẩn, linh thiêng.

Chùa Hoa Yên (Chùa Yên Tử Hay Chùa Vân Yên)

Chùa Hoa Yên có tên cũ là chùa Vân Yên, dân gian thường gọi là chùa Cả, chùa Chính hay chùa Yên Tử. Chùa Hoa Yên là ngôi chùa lớn, to và đẹp nhất trong khu di tích danh thắng Yên Tử. Đây là nơi chứng kiến đức vua Trần Nhân Tông sau khi dứt bỏ hồng trần đã hướng tâm về nơi Phật pháp và lập ra Thiền phái riêng mà ngày nay mọi người vẫn gọi là Thiền phái Trúc Lâm.

Chùa Hoa Yên tọa lạc trên núi Yên Tử ở độ cao 516m do Thiền sư Hiện Quang khai sơn. Ngài là đệ tử nối pháp của Thiền sư Thường Chiếu. Kế tiếp Thiền sư Hiện Quang là Quốc sư Trúc Lâm, Quốc sư Đại Đăng, Thiền sư Tiêu Diêu, Thiền sư Huệ Tuệ, Đại Đầu Đà Trúc Lâm tức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.

Lịch sử chùa Yên Tử (chùa Hoa Yên)

Tuy rằng Đại Đầu Đà Trúc Lâm thuộc thế hệ thứ 6 ờ Yên Tử, nhưng do Ngài đã thống nhất các Thiền phái đã có thành một Thiền phái Trúc Lâm nên người đời gọi Ngài là Trúc Lâm đệ nhất Tổ.

Thuở ban đầu, chùa Hoa Yên chỉ là một Am thất nhỏ có tên là Vân Yên (tức mây khói) với hàm ý: chùa tận trên núi cao quanh năm mây phủ, mây lững lờ trôi, trắng nhẹ như mây khói trên núi. Trước khi thượng hoàng Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành, chùa được các nhà sư thời Lý xây dựng, mái chùa lợp bằng lá cây rừng. Sau khi lên tu hành, vua Trần Nhân Tông đã thường xuyên mở các lớp truyền yếu kỷ thiền tông cho các đệ tử Pháp Loa, Huyền Quang, Bảo Sái, Pháp Không và các đệ tử khác ở đây.

Đến năm 1317, Pháp Loa được truyền y bát và trở thành Đệ nhị Tam Tổ, chùa Hoa Yên mới được xây dựng nguy nga, tạo thành một quần thể kiến trúc rộng lớn. Các công trình hạng mục của chùa trước ngoài tiền đường, thượng điện để thờ Phật, chùa còn có lầu trống, lầu chuông, nhà nghỉ khách, nhà giảng đạo, nhà dưỡng tăng…

Khi vua Lê Thánh Tông (1442-1497) về đây vãng cảnh chùa, thấy cảnh sắc tốt tươi, muôn hoa đua nở, nhà Vua đã đổi tên chùa Vân Yên thành chùa Hoa Yên.

Đến thời Nguyễn, chùa bị hoả hoạn chỉ còn lại phế tích, di vật là những tảng đá kê chân cột có kích thước lớn cho thấy kiến trúc chùa xưa rất rộng rãi.

Cuối năm 2002, Hoa Yên đã được xây dựng lại trên nền chùa thời Trần, có Tiền Đường, Hậu Cung, có Tả vu Lầu Chuông, Hữu vu Lầu Trống, phía sau Hậu Cung là nhà thờ Tổ, tạo nên không gian kiến trúc kiểu “Nội công, ngoại quốc”. Nhà dưỡng Tăng, Ni ở hai bên chùa. Toàn bộ hoành phi, cửa võng, tượng pháp trong chùa đều do Thượng tọa chùa Phúc Lâm Thích Quảng Tùng thâu lượm công đức của thập phương tiến cúng. Trước tòa Tam bảo là Lầu hương bằng đồng do các ông Lê Văn Kiểm, Hoàng Quang Thuận, Sở du lịch tỉnh Quảng Ninh và Công ty than Nam Mẫu tỉnh Quảng Ninh tiến cúng.

Chùa Hoa Yên là nơi tu hành, thành đạo, truyền thừa của các thế hệ Tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử:

– Thời Lý có Thiền sư Hiện Quang khai sơn chùa Vân Yên từ trước năm 1220.

– Thời Trần có Quốc sư Đạo Viên, Quốc sư Đại Đăng, Thiền sư Tiêu Diêu, Thiền sư Huệ Tuệ. Tại chùa Hoa Yên, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông cùng Pháp Loa, Huyền Quang kế thừa và phát triển dòng Thiền Yên Tử lập nên Thiền Phái Trúc Lâm với tinh thần nhập thế và hộ quốc an dân.

– Thời Lê có Thiền sư Chân Trú, Tuệ Chân, đặc biệt là Thiền sư Chân Nguyên – người có công chấn hưng Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử…

Cảnh quan & Kiến trúc chùa Hoa Yên

Hình dáng kiến trúc chùa mang đậm nét văn hoá kiến trúc chùa thời Lý, Trần. Chùa có kết cấu hình chữ “Công”, được làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài kép, riềm bò nóc trang trí hình hoa thị, có hai con Rồng miệng há to ngậm hai đầu bờ nóc bờm giống sóng nước vân mây uốn cong lên mềm mại, dưới đầu Rồng là đôi Uyên ương. Vì ruồi trang trí hình hổ phù cách điệu. Hệ thống cánh cửa bức bàn để mộc trơn không trang trí.

Nền chùa cao hơn sân và được kết cấu bậc tam cấp bằng đá, hai bên lan can đặt hai con Rồng đá mang phong cách kiến trúc thời Trần, tạo nên sự tôn nghiêm của ngôi chùa. Không gian kiến trúc hài hoà với cảnh sắc thiên nhiên tươi tốt. Phía trước chùa là ba cây Đại cổ kính trên 700 năm tuổi, thân cây gồ ghề, rêu phong, cành lá xum xuê, trông tựa như hàng nghìn bàn tay dâng những bông hoa trắng ngà thơm ngát, cúng Chư Phật mười phương và Phật Tổ Trúc Lâm.

Ở bên phải, bên trái sân chùa là hai cây Sung cổ có những chùm quả xanh, đỏ đan xen chi chít thân cành. Theo dân gian truyền lại, quả Sung, quả Vả trong rừng là món ăn chay của các Thiền sư tu hành ở Yên Tử.

Tượng thờ trong chùa được bài trí theo chùa Việt và Phật giáo Đại thừa. Tiền Đường: bên trái là Đức Chúa Ông, Hộ pháp Khuyến Thiện, bên phải là Thánh Tăng, Hộ pháp Trừng Ác, Quan Âm Nam Hải. Chính Điện có tam cấp thờ: cấp trên cùng là bộ tượng Tam Thế Phật gồm: Phật quá khứ; Phật hiện tại; Phật vị lai. cấp thứ hai là bộ tượng Đức Phật Thích Ca thành đạo còn được gọi là Phật Thế Tôn hoặc Phật Niêm Hoa vì tay phải cầm bông hoa Sen giơ lên thay việc thuyết pháp bằng lời, hai bên là hai đệ tử Ma Ha Ca Diếp dáng già nua và A Nan Đà dáng trẻ. Cấp thứ ba là Toà Cửu Long. Góc bên trái hậu cung là tượng Địa Tạng Bồ Tát, góc bên phải là tượng Quan Âm Chuẩn Đề.

Nhà thờ Tổ gồm 7 gian, bài trí tượng thờ 5 gian, 2 gian để đồ thờ và tế khí. Chính giữa thờ Tam Tổ Trúc Lâm và Tượng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn và tượng Bảo Sái đệ tử của Ngài. Tiếp theo, bên trái thờ Tam Vương: Ngọc Hoàng ở giữa, Nam Tào, Bắc Đẩu ở hai bên, Ban thờ Đức Thánh Trần và hai Thị giả. Bên phải, ban thờ Tam Toà Thánh Mẫu gồm: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và các Thị giả, tiếp bên phải là ban thờ Chúa Thượng Ngàn và hai Thị giả.

Hiện nay, chùa Hoa Yên có 39 pho tượng trong đó có một pho tượng Quan Âm Nam Hải có niên đại vào cuối thế kỷ XIX, còn lại đều là những pho tượng mới được đưa vào thờ năm 2002 khi khánh thành chùa. Có một số hiện vật tiêu biểu có niên đại thời Trần, Lê như Bia đá Hậu Phật dựng vào thời Lê niên hiệu Bảo Thái năm thứ (1723) và hai con Sấu đá thời Trần đặt trước Bia hậu Phật tại sân trước bên trái chùa Hoa Yên. Bia do các quan viên đứng đầu coi giữ các xã Nam Mẫu, Trung Lương, Nội Hoàng dựng lên để khắc ghi công đức của bà Vũ Thị Phương đã xuất tiền của cứu trợ dân nghèo vùng Nam Mẫu, Trung Lương, Nội Hoàng. Nhân dân tôn bà làm Hậu Phật ở ngôi Nhân thần để đời đời không quên đèn nhang thờ cúng. Thân Bia hình chữ nhật, phía trên hình bán nguyệt, mặt trước của Bia chạm khắc ba vị Thiền sư toạ trên đài sen, đó chính là Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông ở trên, Đệ Nhị Tổ Pháp Loa và Đệ Tam Tổ Huyền Quang ở hai bên dưới. Mặt sau của Bia, ở trên khắc trang trí đôi Rồng chầu Nguyệt. Phần diềm Bia trang trí hoa văn lá dây mềm mại. Phía trước sân chùa có Bia đá hình trụ vuông có tên là: “Hoa Yên Tự Bi” có niên đại vào thời Lê.

Phía sau chùa Hoa Yên là chùa Phổ Đà Quan Âm Bồ Tát, nay chỉ là phế tích (chưa khảo cổ để lập hồ sơ di tích). Cạnh chùa có 6 ngọn tháp còn khá nguyên vẹn. Ở phía trên chùa không xa, dưới tán của 4 cây tùng cổ là tháp độ nhân Mỹ Lệ. Tháp được xây bằng gạch tráng men xanh, kiến trúc nguyên gốc đời Trần.

Xét về mặt tâm linh, chùa Hoa Yên là nơi giao hội của trục linh (trục tung) và trục tú (trục hoành), hai bên tả hữu vươn ra như hai tay ngai (tả long thanh, hữu bạch hổ) theo luật phong thủy, đây là vị trí đất quý hiếm.

Chùa Hoa Yên cộng với toàn bộ hệ thống chùa Yên Tử nằm hài hòa giữa thiên nhiên hùng vĩ là một dẫn chứng rõ nét về sự dung hợp hai quan niệm đạo và đời của dân tộc ta. Với những giá trị đặc biệt của mình, chùa Hoa Yên là một bộ phận không thể thiếu của quần thể kiến trúc văn hóa tâm linh Yên Tử mà mỗi du khách đều muốn viếng thăm khi hành hương về đất Phật.

Sự Tích Chùa Yên Tử

1. Núi Yên Tử

Yên Tử là một ngọn núi đẹp nổi tiếng ở nước ta với những con suối trong vắt, lững lờ như vải lụa uốn quanh những rừng trúc, rừng tùng xanh bạt ngàn, thấp thoáng ẩn hiện là những ngọn tháp và đền chùa cổ kính. Nơi đây xưa kia là kinh đô Phật giáo với phái thiền Trúc Lâm nổi tiếng mà người sáng lập là một anh hùng dân tộc – vua Trần Nhân Tông (1258-1308).

Yên Tử là ngọn núi cao nhất nằm ở phía Tây Bắc thị xã Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thị xã 17 km. Đứng ở độ cao 1068m, trên đỉnh núi, ta có thể bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn với những đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Ha Long như một bức tranh, xa xa là dòng xông Bạch Đằng cuộn sóng. Dọc con đường hành hương, đến chân núi là suối Giải Oan ngoằn ngoèo lượn khúc, nước trong vắt chảy róc rách qua những viên đá bóng nhẵn.

2. Sự tích Yên Tử

Tục truyền xưa kia vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con trai là Trần Anh Tông rồi tìm đến cõi Phật. Rất nhiều cung tần và mỹ nữ đã đi theo và khuyên ông trở về nhưng không được nên họ lao mình xuống suối tự vẫn. Vua Nhân Tông thương cảm cho họ nên lập một ngôi chùa siêu độ để giải oan, từ đó chùa và con suối mang tên là Giải Oan Cốc. Chùa được trùng tu nhiều lần, ẩn mình trong những lùm cây soi bóng xuống suối trong uốn quanh trước mặt.

Từ Giải Oan Cốc leo ngược mỗi lúc một cao và khó đi. Ven đường là hàng tùng cổ khoảng 700 đến 800 năm tuổi, thân rất to rắn chắc, rễ bò lan mặt đường như những con trăn lớn đang trườn mình thành những bậc thang vững chắc để đi . Đến dốc Voi phục, tục truyền xưa kia vua Trần Anh Tông lên thăm chùa Hoa Yên – nơi tu hành của Trần Nhân Tông, đều phải xuống kiệu leo bộ lên chùa. Bên cạnh dốc Voi phục là Hòn Ngọc, trên đỉnh có nhiều tháp và mộ, vôi lở gạch rêu. Đó là nơi yên nghỉ vĩnh hằng của các vị sư trụ trì chùa Yên Tử.

Qua Hòn Ngọc đến cụm tháp Huệ Quang là tháp của Ngự Giác hoàng Trúc Lâm – Trần Nhân Tông. Tháp có 6 tầng, cao 10m làm bằng đá. Tầng thứ 2 của tháp đặt tượng thờ Trần Nhân Tông được coi là tác phẩm điêu khắc có giá trị nhất ngày nay, được làm bằng đá cẩm thạch, chạm trổ rất đẹp. Pho tượng đạt trình độ điêu khắc cao, toát lên những nét điềm đạm phúc hậu của những bậc siêu phàm giải thoát. Sự kết hợp hài hòa của cụm tháp với cây cối xung quanh, đặc biệt là những cây tùng cổ to lớn toả bóng xuống Tháp vị tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm u trầm, đồ sộ, tạo cho du khách có một tấm lòng thành kính.

Cạnh đó có suối Ngự Dội vốn có tên Long Khê, tục truyền vua Nhân Tông thường tắm ở suối nàỵ. Đi tiếp tới chùa Một Mái có nhiều tượng và hai tháp gạch. Qua chùa Một Mái tới Am Ngọa Vân nay chỉ còn phế tích. Đứng ở đây khách hành hương có thể hướng tầm mắt ra biển, thấy thấp thoáng Vịnh Hạ Long và những dải mây trắng bồng bềnh quấn quanh người mát lạnh, tâm hồn thanh thản lạ thường. Leo lên một đoạn dốc thẳng đứng, du khách được thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp có tên Trúc Lâm. Cả rừng trúc xanh bạt ngàn biếc mắt, khi một làn gió nhẹ đưa mây trắng phủ kín. Tạo nên một khung cảnh nên thơ và một gam màu đầy sống động cho bức tranh Yên Tử.

Rồi rừng trúc lại hiện ra khi mây trắng trôi đi. Cảnh hư hư, thực thực rừng trúc lúc ẩn lúc hiện làm cho khách hành hương thấy mình như lạc vào cõi tiên. Rời chốn thần tiên đến chùa Bảo Sái, cheo leo bên vách núi, đi tiếp đến chùa Vân Tiêu cách xa chân núi 4000m, được coi là danh giới giữa cõi trần và cõi tiên. Từ đây càng lên cao càng mát, nhìn xuống dưới chỉ thấy màu xanh ngắt của rừng cây trùng trùng điệp điệp! Leo cao nữa là đoạn đường khó đi, được coi là quãng đường gian nan nhất khi du khách hành hương đến cõi Phật, dốc đá dựng đứng cheo leo bên vực thẳm.

Đến một vùng đất bằng phẳng, rộng giữa đường. Truyền thuyết rằng: Ngày xưa có một tên ăn trộm tên Yên Kỳ sau khi đã cùng đường bí lối thì giác ngộ nên đã khoác áo đi tu. Sau khi đã mãn phần thì linh hồn đã an trú vào một hòn đá, sừng sững như một nhà sư đang thỉnh tọa để tiếp tục tu hành. Pho tượng kỳ vĩ này như có bàn tay người tạo nên, ở khoảng núi cao giữa trời mây người hành hương có cảm giác như đang gặp được Bồ Tát. Đi tiếp đoạn đường, du khách sẽ gặp những tảng đá lớn, phẳng dốc bắt người đi phải ngoằn ngoèo dưới các tảng đá. Tiếng gió réo va đập vào những phiến đá phát ra âm thanh trầm bổng du dương do hai nhạc công là gió và đá như đang trình diễn một bản nhạc thiên nhiên không dứt. Các phiến đá lớn tạo ra cửa chắn hai bên, nơi đấy được gọi là cổng trời để đi vào thiên đình của tiên Giới.

Cổng còn mang những vết tích từ xa xưa, hình thành nên một ngọn núi có rất nhiều vỏ sò, vỏ ốc, du khách như thấy mình đứng trên ngọn núi vừa nhô lên khỏi mặt biển. Qua cổng trời lên đỉnh núi không xa nhưng khó đi và độ cao khoảng 1.068m cửa núi được đặt ở gần một tảng đá phẳng lớn, trên đó có một ngôi chùa bằng đồng cổ kính tên là Thiên Trúc Tự (chùa Đồng) . Đứng ở đỉnh núi sẽ thấy những đám mây trắng bồng bềnh như suối vờn quanh, hơi nước ngưng lại trên da, tóc thành những giọt sương trong mát lạnh. Không khí trong lành làm cho du khách cảm thấy tiêu tan mọi mệt nhọc, nhẹ nhàng, và thanh thản, khó diễn tả được thành lời, sau quãng đường đầy gian nan, hành bộ tìm đến nơi này.

Cây Hoa Mai Vàng Trên Đất Yên Tử

NGẮM HOA MAI VÀNG

Sử liệu, công trình nghiên cứu khoa học, lịch sử, văn hoá về di tích danh thắng Yên Tử có rất nhiều, song, hầu như không có tài liệu chính thức nào nói về loài mai vàng rất quý tại Yên Tử, mọc thành rừng. Trong đó, qua khảo nghiệm, có nhiều gốc mai có tuổi đời tương đương với thời điểm vua Trần Nhân Tông mới đến đây tu hành (khoảng từ năm 1285-1288, cách đây hơn 700 năm).

Do đặc điểm của loài, tuy là “cụ” mai nhưng cây già nhất, cao nhất cũng chỉ có chiều cao trên 10m, đường kính gốc hơn 50cm mà thôi. Vì vậy, giống mai này được các nhà thực vật gọi là “đại lão mai vàng”, phân bố tại nhiều điểm quanh núi Yên Tử: như chùa Đồng, Thác Vàng, Thác Bạc, chùa Một Mái, chùa Vân Tiêu, chùa Bảo Sái. Ngoài ra, một số điểm khác nằm trong vùng rừng đặc dụng Yên Tử như Dốc Ranh, Khe Chè, chùa Hồ, Trại Lốc, chùa Ba Bậc, Dốc Hẩy… thuộc xã Tây Sơn, huyện Đông Triều cũng có thấy “đại lão mai vàng” mọc tập trung, mật độ hàng trăm cây mỗi điểm với tuổi đời từ vài chục đến vài trăm năm.

Theo những nghiên cứu gần đây, cây mai vàng Yên Tử không khác mấy về loài so với cây mai vàng miền Nam, cùng có tên khoa học là Ochna integerrima. Mặc dù vậy, do phải sống trong khu vực miền Bắc nói chung và Yên Tử nói riêng, nền khí hậu có nhiệt độ 4 mùa rõ rệt, rất lạnh vào mùa Đông, lâu dần đã tạo ra sự khác biệt về mặt hình thái. Mai Yên Tử có hình hài “khắc khổ”, “phong trần” hơn.

Điểm khác biệt đáng kể nhất là mai miền Nam hoa nhiều, cánh hoa dày, nhiều lớp, vàng rực nhưng rất ít hương thơm, trong khi đó, “đại lão mai vàng” Yên Tử hoa thưa, cánh ít, có sắc xanh, khi nở toả ra hương thơm nhẹ nhàng, thanh khiết, lan toả cả góc rừng thiền môn chay tịnh.

Theo người dân địa phương, Mai Yên Tử cây lão niên mới có “thế” đẹp nên thường bị chặt cả cây. Phần gốc bị đánh bật để bán riêng cho những người có thú chơi cầu kỳ với giá tiền rất lớn. Do đó, chỉ trong vòng 5 năm trở lại đây, số lượng đại lão mai vàng tại Yên Tử giảm rõ rệt, được cảnh báo trước nguy cơ tuyệt chủng. Một số người đào nguyên cả gốc đem về trồng ở vườn nhà, song do không nắm rõ điều kiện sinh trưởng, không thích nghi môi trường mới, mai vàng Yên Tử không thể tồn tại.

Từ năm 2007, UBND tỉnh Quảng Ninh, UBND thị xã Uông Bí đã ra sức kêu gọi các nhà khoa học chuyên ngành thực vật tham gia nghiên cứu cách giữ gìn nguồn gen loài mai quý. Theo đó, Viện Nghiên cứu Rau quả – Viện Khoa học nông nghiệp (Bộ NN và PTNT) đã xây dựng phương án và thực hiện thành công bước đầu việc ươm giống 2.500 cây Yên Tử trồng tại xã Thượng Yên Công (chân núi Yên Tử).

Yên Tử Và Thiền Phái Trúc Lâm Qua Truyện Ký Một Lần Về Yên Tử Của Trần Trương

YÊN TỬ VÀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM QUA TRUYỆN KÝ MỘT LẦN VỀ YÊN TỬ CỦA TRẦN TRƯƠNG

Cách đây không lâu, Trần Trương đến nhà tôi chơi, anh khoe tôi một tập bản thảo vừa in từ vi tính ra, còn nguyên hơi ấm, với tựa đề Một ngày về Yên Tử. Song vì thời gian, tôi chỉ lướt qua và chúc mừng anh đã đầu tư công sức cho một tác phẩm dầy dặn như vậy.

Vừa xuất bản xong anh mang tặng tôi, nhưng tác phẩm đã được mang tên Một lần về Yên Tử  (Khác với tiêu đề cũ ở chữ “ngày” và “lần”), do Nhà Xuất bản Hội Nhà văn ấn hành tháng 5 năm 2023. Đọc xong, tôi xin có một vài cảm nhận về tác phẩm:

Truyện ký Một lần về Yên Tử của tác giả Trần Trương.

Viết về Yên Tử, viết về Thiền phái Trúc Lâm đã có rất nhiều sách, nhiều bài báo của nhiều tác giả có tên tuổi từ xưa đến nay trên đất Việt và cả ở nước ngoài. Bản thân Trần Trương cũng đã cho ra mắt bạn đọc khá nhiều tác phẩm như: Non thiêng Yên Tử; Danh nhân Yên Tử; Chùa Yên Tử; Phật Hoàng Trần Nhân Tông; Yên Sơn ký ức… Lần này là một truyện ký Một lần về Yên Tử với độ dầy gần 300 trang, sách được trình bày trang nhã, bắt mắt. Anh đã khéo léo truyền tải hiểu biết của mình về Yên Tử, về Thiền phái Trúc Lâm qua câu chuyện giữa thày và trò, giữa người Việt Nam và một du khách Nhật, thật giản dị mà uyên thâm. Thầy Bảo (tên nhân vật trong truyện), với cái túi “càn khôn” của mình, đã lần lượt đưa học trò và cả người đọc, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Yên Tử đã trở thành một “Danh Sơn”, nói cách khác đó là “núi nổi danh” hay “núi nổi tiếng”. Vì ở đây cảnh quan rất đẹp, đó cũng là nơi gắn với cuộc đời của những người nổi tiếng như Đạo sĩ Yên Kỳ Sinh, tên của thầy dùng đặt tên cho ngọn núi này, rồi Sư Tổ Hiện Quang thời nhà Lý, Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên, Quốc sư Đại Đăng… Tam Tổ Trúc Lâm thời nhà Trần . Vùng núi Côn Sơn – Kiếp Bạc – Phượng Sơn thuộc dãy Yên Tử còn là nơi Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương dưỡng nhàn lúc tuổi già. Cũng là nơi các bậc danh sĩ như: Chu Văn An (thời Trần), Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thời Lê) về ở ẩn. Đó đều là những danh nhân có công với Nước, với Dân, được liệt vào hàng Phật, Thánh, Thần, Tiên. Mặt khác, Yên Tử nổi danh bởi đã được thơ ca, sử sách truyền đi khắp nhân gian, từ nơi này sang nơi khác, từ đời này đến đời khác. Bởi thế mà núi trở nên nổi tiếng.

Không chỉ có vậy, Yên Tử còn là một núi linh thiêng. Núi linh thiêng thường gắn với đời sống tâm linh của con người, trở thành biểu tượng thiêng liêng của niềm tin tín ngưỡng tôn giáo và được nhân dân ngưỡng vọng, tôn thờ. Trong tâm thức người Việt, một ngọn núi thiêng thường gắn với một nhân vật linh thiêng là Thần, Thánh, Phật, Tiên. Ngọn núi Yên Tử không chỉ có một Yên Kỳ Sinh tu tiên đắc đạo mà còn có Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông hiển Phật và ngài trở thành Đức Phật Việt Nam hơn bảy trăm năm qua. Có nhiều những Thiền sư đạo cao, đức trọng đã tu hành, hóa thân về dưới Phật đài, còn lưu lại ngọc cốt, xá lị được thờ phụng tại Yên Tử. Ở đây còn thờ Mẫu, thờ Tứ Phủ theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Hơn nữa, vào thời nhà Nguyễn, Yên Tử đã được triều đình ghi vào danh sách những ngọn núi thờ cúng. Nên núi đã thiêng lại càng linh thiêng hơn.

Có phải vì cảnh đẹp hay vì núi nổi danh, hay núi thiêng mà Trần Nhân Tông đã về Yên Tử tu hành?

Thực ra, trước khi Trần Nhân Tông về Yên Tử tu hành thì Người đã có những năm tháng gắn bó với chùa Tư Phúc ở Thăng Long. Ngay cả động Vũ Lâm và hành cung Vũ Lâm ở Ninh Bình, cũng là nơi gắn bó với Ngài từ khi Ngài nhường ngôi báu cho con (năm 1293), và đến năm 1299, Ngài mới về Yên Tử tu hành. Cũng có ý kiến cho rằng: Ngài chọn đỉnh cao Yên Tử, lấy đó như một vọng gác tiền tiêu, nhằm phát hiện, lắng nghe những động tĩnh để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm lược.

Nhưng trong thực tế, Yên Tử chỉ cao 1.068m. Là một người lính trinh sát Phòng không Không quân trong những năm đánh Mỹ, tôi hiểu điều này, ở độ cao ấy không thể làm một trạm quan sát mắt để phát hiện những biến động từ phương Bắc hay từ biển Đông vào được. Tôi đã suy nghĩ từ lâu điều này, nhưng không có dịp để thổ lộ. Lần này, qua tác phẩm của Trần Trương, qua bài viết này, tôi xin được góp sự đồng cảm cùng tác giả. Hơn nữa, một ông vua, biểu trưng cho quyền lực tối thượng của quốc gia, không thể biến mình thành một cái tôi hữu hạn làm người lính gác biên thùy như vậy được. Coi Thượng Hoàng như một người lính gác biên thùy, vô hình chung đã làm giảm đi cái đẹp lớn lao của Thượng Hoàng.

Vậy vì sao Thượng Hoàng Trần Nhân Tông về Yên Tử tu hành? Nếu theo nhân vật trong tác phẩm với vai thầy Trần Bảo thì có mấy nhận định:

Thứ nhất: Yên tử là chốn tổ đình, Sơn môn của dòng thiền Yên Tử. Từ nhỏ cho đến lúc xuất gia, Trần Nhân Tông tu Thiền đắc pháp bởi dòng Thiền Yên Tử. Dòng thiền này đào tạo được những thế hệ Thiền sư có uy tín lớn, nhiều vị được triều đình nhà Trần tôn vào hàng Quốc sư.

Thứ hai: Yên Tử là nơi lý tưởng để tu Thiền. Môn Thiền định rất cần có nơi yên tĩnh. Đức Phật Tổ Thích-ca Mâu-ni chọn ngồi dưới gốc cây Bồ-đề để Thiền đắc đạo, còn Phật Hoàng chọn Yên Tử, đều là những nơi yên tĩnh, thuận cho tu luyện.

Thứ ba: Yên Tử là nơi tu hành đạt đạo của nhiều danh nhân thuở trước. Đầu tiên phải nói đến Yên Kỳ Sinh tu tiên đắc đạo. Việc thực hư pho tượng bằng đá ở gần đỉnh núi, giống hình người, tương truyền là tượng Yên Kỳ Sinh, cũng cho thấy đây là một địa chỉ Đạo giáo lâu đời và cũng là nơi con người tu luyện đạt Đạo Tiên. Cuối thời Lý có Tổ sư Hiện Quang, đầu thời Trần có Quốc sư Đạo Viên, Quốc sư Đại Đăng, Thiền sư Tiêu Diêu… đã tu thành đắc pháp ở núi này.

Thứ tư: Yên Tử là “phúc địa” (đất phúc). Trong thời kỳ thống trị nước ta (năm 603 đến 907) nhà Đường đã xếp núi Yên Tử vào danh sách bảy mươi hai phúc địa của Trung Hoa. Theo An Nam chí lược, Yên Tử còn là Phúc địa Giao Châu. Là một trong bốn nơi được coi là (phúc địa) ở Miền Bắc Việt Nam.

Thứ năm: Yên Tử là nơi có vị trí đặc biệt đối với dòng họ Trần và với Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Tiên tổ nhà Trần là người Yên Sinh, Đông Triều, sau mới dời đến hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, cho nên các vua Trần đều táng ở Yên Sinh, khi nhường ngôi xuất gia đều lấy Yên Sinh làm nơi tu ẩn.

Đó là năm nguyên nhân cơ bản mà thầy Trần Bảo (nhân vật trong truyện) đã đúc kết lại. Người đời còn có thể tìm ra hoặc suy luận ra những nguyên nhân khác thuộc những vấn đề về thâm cung bí sử.

Ở đây, ta nhận thấy việc xuất gia của Thượng Hoàng Trần Nhân Tông là một việc làm phi thường, bởi từ cương vị của một Thượng Hoàng tột đỉnh vinh hoa, mà Ngài từ bỏ tất cả, phát nguyện tu theo mười hai hạnh đầu-đà (khổ hạnh), rồi tu thành Phật quả. Và vĩ đại ở chỗ không phải cho Ngài mà cho giang sơn, xã tắc. Mặt khác, di họa của chiến tranh tàn khốc do giặc Nguyên Mông để lại cho dân cho nước thật nặng nề. Chiến tranh gây ra cả mối hận thù, nhân tâm ly tán. Nhiều kẻ ham sinh, tham lam lại lao vào hưởng thụ khiến cho tam độc tham, sân, si lại trỗi dậy trong lòng người. Đó là nguy cơ làm cho toàn xã hội bị tha hóa, rất có thể dẫn tới sự sụp đổ của một vương triều, không tránh khỏi sự nhòm ngó của kẻ ham muốn xâm lăng. Trần Nhân Tông nhận ra điều đó, Ngài muốn dùng uy đức của mình để “tịnh hóa nhân gian”, khơi dậy Phật Tâm trong mỗi con người, quy tụ nhân tâm thành một khối thống nhất trong việc tái thiết đất nước sau chiến tranh và xây dựng quốc gia Đại Việt hùng cường. Một điều nữa, đó là Phật giáo Đại Việt đã suy vi từ cuối thời Lý, sang đầu thời Trần chưa cải thiện là bao. Trong giới tu hành đương thời còn nhiều kẻ tà tâm vô đạo. Thượng Hoàng nhận thấy không thể dùng quyền uy để chấn hưng đất nước, chấn hưng Đạo Phật. Chỉ với tư cách Giáo chủ Phật giáo Đại Việt, Thượng Hoàng mới làm được việc này.

Thượng Hoàng về Yên Tử với một ước vọng lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đã từ lâu, giáo lý dòng Thiền Yên Tử chịu ảnh hưởng và kế thừa tinh hoa di sản tư tưởng Bát-nhã và tu tập thiền quán của Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, chủ trương “đốn ngộ” (giác ngộ nhanh) và nhập thế của Thiền phái Vô Ngôn Thông, khuynh hướng thiền học trí thức và thi ca của Thiền phái Thảo Đường. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chính là sự kế thừa có chọn lựa từ dòng Thiền Yên Tử đã trải qua tám mươi lăm năm hình thành và phát triển kể từ khi Thiền sư Hiện Quang về Yên Tử tu hành. Như vậy Thiền Yên Tử và Thiền Trúc Lâm Yên Tử đã hòa vào một và tồn tại tới ngày nay. Thiền phái Trúc lâm Yên Tử được thành lập là đã tự mình phân biệt với Thiền Tông Trung Quốc, là thay đổi một phần nội dung tiêu cực và thân ngoại. Đó cũng là một cuộc thống nhất ý thức hệ để tạo nên một Phật giáo nhất tông và cũng là khoác cho mình chiếc áo mới của một tôn giáo mới.

Qua tác phẩm này ta nhận thấy Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tuy kế thừa những tinh hoa của Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và các dòng thiền khác, nhưng Thiền Trúc Lâm Yên Tử vẫn thể hiện những đặc điểm riêng nổi bật.

Thứ nhất: Theo Đệ nhị Tổ Pháp Loa, Thiền ở đây là loại Thiền Thượng Thừa, nếu tu trì được sẽ thành Phật.

Thứ hai: Thiền Trúc Lâm Yên Tử nêu quan điểm mới về Phật. “Phật tức tâm” và “Bụt là ta”.

Thứ ba: Đặc trưng nổi bật của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là tông chỉ “soi sáng lại chính mình”.

Thứ tư: Đặc trưng căn bản của Thiền Trúc Lâm Yên Tử là sự dung hợp, hiển đạt tam tông (Thiền-Tịnh-Mật) và tam giáo đồng nguyên (Phật-Nho-Giáo). Chủ trương “niệm Phật, thụ giới và tọa Thiền”.

Thứ năm: Thiền Trúc Lâm Yên Tử đề cao lối sống “hòa quang đồng trần”, “cư trần lạc đạo”, tạo nên tinh thần nhập thế rất mạnh mẽ.

Thứ sáu: Thiền Trúc Lâm Yên Tử tôn trọng sự tùy duyên trong việc hành trì, giáo hóa độ sinh của các Thiền sư và Cư sĩ. Chúng dân tùy theo căn cơ mà lựa chọn cách tu cho phù hợp.

Thứ bảy: Thiền Trúc lâm Yên Tử giúp con người rèn luyện luân lý đạo đức hơn là theo tính chất thần bí tôn giáo.

Giáo lý Trúc Lâm thực sự trở thành những bài học luân lý, khuyên răn con người không được tham lam của cải, sắc đẹp, rượu nồng, thịt ngon, công danh phú quý…, vì lòng tham dẫn dắt con người đến chỗ làm trộm cướp, bè phái, khinh vua, gét cha, nhạo Tăng, chửi Phật… Giáo lý kêu gọi mọi người làm việc thiện, bố thí cho kẻ nghèo, thương yêu người khác, tôn trọng phép nước, kính cha, thờ vua, góp phần tích cực xây nên Tịnh Độ ở trần gian.

Ta nhận thấy từ tác phẩm những đặc điểm của Thiền Trúc Lâm, dù có khác với đặc điểm của những Phái Thiền khác, nhưng lại rất gần gũi với điều kiện, với tâm tính của con người Việt Nam. Quan điểm “Bụt là ta” thật mới mẻ, dựa trên nguyên lý “Phật tức tâm”. Phật ở ngay trong tâm mình, Phật chính là mình, không phải tìm ở bên ngoài. Chỉ cần tâm tĩnh lặng và soi sáng lại mình sẽ thấy được Phật tính. Lối sống “hòa quang đồng trần”, “cư trần lạc đạo”, tạo nên tinh thần nhập thế rất mạnh mẽ. Đó chính là sự gắn kết giữa Đạo và Đời, khiến Đạo “đạo hơn” và khiến Đời “đời hơn”. Đó là việc làm đưa Đạo vào Đời phục vụ đất nước và nhân dân. Lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình thành Phật Tâm. Đó là lối sống “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”.

Phải chăng đó là những tư tưởng đã xuyên suốt trong đời sống tâm linh cũng như trong đời sống chính trị-xã hội của dân tộc Việt Nam trải qua bao thế kỷ. Đó cũng phải chăng là một cơ sở của luận thuyết mà Đảng ta hằng nêu ra: Phải tự trau dồi và rèn luyện mình, phải tự phê bình và phê bình. Và có phải chăng, đó cũng là một cơ sở của phương châm mà Đảng ta đã nêu: “Tất cả là do dân và vì dân”!

Một lần về Yên Tử còn đề cập tới một vấn đề mà tôi tâm đắc, đó là  “sám – hối”. Con người ta sinh ra và sống ở trên đời, không ai thoát khỏi lỗi lầm! Và cũng không ai không muốn hướng về cái tốt, cái thiện! Song việc ấy thể hiện ở mỗi người là khác nhau. Sám là ăn năn lỗi trước. Hối là chừa bỏ lỗi sau. Không phải ai cũng nhận ra và làm được việc “sám”, không phải ai cũng nhận ra và làm được việc “hối”. Chúng ta đang sống trong một thời kỳ hòa nhập – đổi mới và phát triển. Cũng đang trong giai đoạn chống tham nhũng quyết liệt nhất, liệu mỗi chúng ta có nhận thức được “sám” và “hối” để tâm mỗi chúng ta ngày một trong sáng hơn không?

Với truyện ký Một lần về Yên Tử, Trần Trương đã cho độc giả biết khá nhiều điều về Yên Tử, về Thiền phái Trúc Lâm. Qua thầy Trần Bảo (nhân vật trong truyện), ta biết thêm nhiều những giáo lý của Trúc Lâm Yên Tử. Đồng thời ta cũng hiểu thêm về nguồn gốc, cảnh quan Yên Tử và về các Thiền sư, Cư sĩ. Đặc biệt là tư tưởng về đạo Phật của các vị Hoàng đế Triều Trần, mà tựu trung lại là Phật Hoàng Trần Nhân Tông với giáo lý Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ta cũng hiểu thêm về sự tích hệ thống chùa, am, tháp, đường tùng, hoa mai, cây đại, những con suối…, và cả những làng quê cổ dưới chân Yên Tử. Sách cũng không quên nêu ra sự kiến tạo của thiên nhiên qua hàng chục triệu năm để có ngọn núi và cũng không quên nêu ra những kiến tạo của con người trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ phát triển kinh tế. Tạo hóa và con người đã hòa quyện vào nhau, đã làm nên một Yên Tử thời nay, một nơi cuốn hút hàng triệu du khách mỗi năm, vì đây vừa là du lịch tâm linh, vừa là nơi du lịch sinh thái, hiếm có trên cõi đời này.

Gập cuốn sách lại, tôi thật cảm phục tri thức của Trần Trương về Yên Tử mà anh đã thể hiện ở nhiều cuốn sách và ở ngay cuốn này một cách tinh tế qua thầy Trần Bảo (mà đó chính là Trần Trương) mà từ lâu tôi đã gọi Trần Trương là “nhà Yên Tử học”.       

Tuy vậy, việc xuất bản một cuốn sách hàng trăm trang khó tránh khỏi những sai sót về chỉnh tả, lặp từ hay một vài dữ liệu chưa chuẩn xác, như Trần Trương đã đính chính kèm theo sách. Riêng cá nhân tôi, tôi vẫn có cái băn khoăn về tên gọi của cuốn sách. Tôi thích “Một ngày về Yên Tử” hơn là “Một lần về Yên Tử”. Thiển nghĩ của tôi với diễn trình này, với câu chuyện này: “Ngày” dài hơn “lần”! Mong Trần Trương và bạn đọc thông cảm!

Xin được chúc mừng Trần Trương!

NGUYỄN XUÂN VINH

Số nhà 26, ngõ 126, đường Lựng Xanh, Uông Bí, Quảng Ninh.

Điện thoại: 0912285205

Giới Thiệu Chung Về Khu Di Tích Lịch Sử Và Danh Thắng Yên Tử

Núi Yên Tử xưa có nhiều tên gọi: Tượng Sơn (Núi Voi), Bạch Vân Sơn (Núi Mây Trắng), Phù Vân Sơn (Núi Mây Nổi), Linh Sơn (Núi Thiêng), An Tử… Trên đỉnh núi ngày nay vẫn còn lưu dấu tích kiến tạo vỏ trái đất cách đây 10 triệu năm với bãi đá ngổn ngang thiên hình vạn trạng. Trong lòng núi có mỏ than lớn. Sóng núi điệp trùng, rừng đại ngàn che phủ, muôn dải núi đều chầu về Yên Tử, cây mọc chênh vênh trên vách đá, thấp thoáng tháp chùa cổ kính rêu phong, thác đổ, suối reo…, đẹp như những bức tranh thủy mặc.

Rừng Yên Tử lưu giữ nhiều nguồn gien động vật và thực vật: Trong 206 loài động vật có xương sống, có hơn 20 loài quý hiếm ghi danh trong Sách đỏ Việt Nam như: Sóc bay lớn, voọc mũi hếch, ếch ang, ếch gai, thằn lằn cá sấu…; trong số 830 loài thực vật, có 38 loài đặc hữu quý hiếm như: Táu mật, lim xanh, lát hoa, thông tre, la hán rừng, vù hương, kim giao… Những hàng tùng, cây đại, vườn cây người xưa trồng đã hơn bảy trăm năm. Rừng trúc bạt ngàn, vạt mai vàng, khóm cúc hoa nở rộ… Cảnh sắc thiên nhiên thay đổi bốn mùa.

Từ xưa, Yên Tử được coi là Cõi Tiên, Cõi Phật – nơi con người tu thành Tiên, thành Phật. Tục truyền: Hơn hai ngàn năm trước, thầy Yên Kỳ Sinh về núi này tu Tiên, hái lượm cây thuốc, luyện thần dược trường sinh bất lão và chữa bệnh cứu người, khi mất đã hóa thành tượng đá, tên gọi “thầy Yên” là “Yên Tử”.

Non Thiêng Yên Tử chính là nơi dung dưỡng tinh thần, giúp con người hướng thiện, trở về bản tâm chân thật của chính mình. Gần một nghìn năm qua, đây là nơi tu hành, thành đạo của của các bậc anh hào hiền lương mà cuộc đời, sự nghiệp đã trở thành bất tử, từ Tổ Hiện Quang thời Lý (trước năm 1220) đến các Tổ: Đạo Viên, Đại Đăng, Tiêu Diêu, Huệ Tuệ, Tam Tổ Trúc Lâm… thời Trần (thế kỷ XIII – XIV), từ Tổ Chân Nguyên thời Lê (thế kỷ XVII) đến Ni sư Đàm Thái thời nhà Nguyễn (đầu thế kỷ XX).

Yên Tử là nơi vua Trần hiển Phật. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308) làm vua ở tuổi 20. Sau khi tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, hai lần (1285 và 1288) đánh thắng giặc Nguyên Mông – đội quân hùng mạnh nhất thời ấy, Ngài thực hiện thành công các cuộc hòa giải, xây dựng đất nước Đại Việt thịnh vượng. Từ bỏ ngôi vua ở tuổi 35, Ngài về hành cung Vũ Lâm rồi lên Yên Tử tu khổ hạnh. Từ chức vị cao sang của nhà vua, vua Trần trở về ngôi tôn quý của Nhà Phật. Ngài mất ở am Ngọa Vân trên dãy núi Yên Tử. Ngôi tháp Huệ Quang trước chùa Hoa Yên thờ xá lợi của Ngài.

Yên Tử là “phúc địa” (đất phúc), “linh địa” (đất thiêng), nơi hội tụ khí thiêng sông núi, được ghi vào điển thờ. Yên Tử lưu giữ những giá trị cao quý về lịch sử, văn hóa, văn minh qua các thời đại. Đây là nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, trên cơ sở tiếp thu và kế thừa những tinh hoa của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa; một dòng Thiền nhập thế, mang đậm bản sắc dân tộc. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chỉ ra rằng: Phật ở ngay trong Tâm mình, không phải ở đâu trên cõi trời xa xôi, không hẹn kiếp khác. Đức Phật chỉ là Người Thầy Dẫn Đường, không phải là thánh thần ban phước, giáng họa. Nếu để cho Tâm mình an định, sáng suốt, buông mọi vọng niệm, tham-sân-si… để sống với bản tâm an nhiên thanh tịnh thì trí sáng, tuệ giác phát sinh, vô minh phủi sạch, khổ đau chấm dứt, sẽ giác ngộ thành Phật. Phật chính là mình, không phải cầu tìm ở bên ngoài. Với quan điểm ấy, Thiền phái Trúc Lâm thực sự lấy con người làm gốc, tôn trọng và đề cao giá trị của con người. Thiền phái Trúc Lâm là nền tảng tư tưởng và đạo đức của một giai đoạn hoàng kim thời Trần ở Việt Nam.

Vào thời kỳ Thiền phái Trúc Lâm phát triển ở đỉnh cao, Yên Tử bao gồm cả một vùng rộng lớn với những công trình kiến trúc Phật giáo tiêu biểu: Long Động, Hoa Yên, Vân Tiêu (Uông Bí ngày nay), Quỳnh Lâm, Hồ Thiên, Ngọa Vân (Đông Triều), Thanh Mai, Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) và những công trình khác ở vùng rừng núi phía Tây Yên Tử trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ngày nay.

Dấu tích lịch sử văn hóa hiện tồn ở Yên Tử là hàng trăm ngôi tháp thờ xá lợi thiền sư; hàng chục nền móng chùa, am thời Trần – Lê dưới những ngôi chùa được trùng tu, phục dựng; hàng nghìn di vật cổ: tượng, chuông, bia đá, ngói, gạch, sứ, sành… với những họa tiết, hoa văn, kiến trúc độc đáo, lưu lại dấu ấn vàng son của một thời đã qua.

Yên Tử là căn cứ địa cách mạng, nơi bộ đội luyện quân, nơi ghi dấu chiến công trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của Việt Nam ở thế kỷ XX.

Về Yên Tử, ta lạc vào một miền cổ tích với những huyền thoại, truyền thuyết về Ông Vua hóa Phật, những áng thơ ca của người xưa, những công trình mang giá trị kỷ lục thời nay: Chùa Đồng, Bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Quả cầu Như Ý báo ân Phật Tổ… Yên Tử luôn là nguồn cảm hứng vô tận của thi, ca, nhạc, họa.

Hàng năm, Yên Tử mở Hội Xuân, đón khách hành hương lễ Phật, du sơn thắng cảnh suốt bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mỗi năm, hàng triệu du khách về Yên Tử. Họ đến từ các địa phương trong nước, từ nhiều quốc gia trên thế giới với đủ độ tuổi, giới tính, sắc tộc và cương vị xã hội.

Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, tư tưởng, cảnh quan… của một Di tích quốc gia đặc biệt và của Rừng quốc gia; với định hướng phát triển du lịch văn hóa tâm linh bền vững, gần gũi với thiên nhiên; cùng Vịnh Hạ Long xinh đẹp và thơ mộng, Yên Tử đã và đang là điểm đến hấp dẫn đối với du khách thập phương trong nước và quốc tế, nơi hàng triệu con tim khao khát hướng về.

Trăm năm tích đức tu hành Chưa về Yên Tử, chưa đành lòng tu.

Cập nhật thông tin chi tiết về Ý Nghĩa Lễ Hội Yên Tử trên website Eduviet.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!